Không có cuộc hành quân Nam tiến, rất khó có thể tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công. Con đường Nam tiến không chỉ là dấu mốc lịch sử mà là một thời hào hùng của cách mạng. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về đến đất Hà Quảng - Cao Bằng ngày 28/1/1941 thì đầu năm 1942, Người chỉ thị cho Tỉnh ủy Cao Bằng phải mở rộng căn cứ địa nối Cao Bằng với Bắc Sơn - Võ Nhai Thái Nguyên “Phải phát triển về Thái Nguyên và thông xuống nữa…”.
![]() |
| Bản “Quân lệnh số 1” của Ủy ban Khởi nghĩa. |
Mở đường Nam tiến
Chính sử đã ghi rất rõ: Thực hiện chủ trương của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 8 (tháng 5-1941), con đường Nam tiến nối căn cứ Cao Bằng với Thái Nguyên được khai thông vào tháng 10-1943. Đầu tháng 5-1945, Bác Hồ cùng đội quân theo lộ trình rời Cao Bằng về xuôi.
Trước đó, từ năm 1942, ông Nông Văn Quang được Bác giao nhiệm vụ bắt liên lạc, đưa thư của Người cho đồng chí Vũ Hưng là cán bộ cốt cán để xây dựng phong trào ở Định Hóa, một huyện có địa thế “Tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ”, có tầm chiến lược quan trọng ở Việt Bắc. Cùng với đồng chí Lê Thiết Hùng, ông Quang cơm nắm, muối lạc, đội mưa gió từ Nguyên Bình xuôi Bắc Kạn, tới ngã ba Bờ Đậu, rẽ lên Phú Minh (Đại Từ), rồi qua Quảng Nạp (Bình Thành), đến Trung Hội, Chợ Chu (Định Hóa)…
Bác cho rằng, ngoài giao thông bí mật, phải tổ chức những con đường quần chúng để khi thời cơ chuyển biến có thể tiến lên tổng khởi nghĩa. Trước mắt, Người yêu cầu mở đường Nam tiến, cử một số cán bộ có nhiệm vụ khai thông con đường từ Đông Khê (Thạch An, Cao Bằng) về Đình Cả (Võ Nhai, Thái Nguyên); Ban Xung phong Nam tiến mở con đường từ Nguyên Bình qua Ngân Sơn, Chợ Rã nối liền với Chợ Chu (Định Hóa) và huyện Đại Từ.
Chi bộ Nam Tiến được thành lập, đến giữa tháng 10-1943, tuyến đường Nam tiến và Bắc tiến (đồng chí Chu Văn Tấn từ Võ Nhai phát triển lên) đã gặp nhau tại xã Nghĩa Tá, Chợ Đồn, Bắc Kạn. Như vậy, con đường Nam tiến Cao Bằng - Bắc Kạn - Thái Nguyên được khai thông, thực hiện thắng lợi chủ trương của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng mà Nghị quyết 8 Trung ương Đảng đã đề ra là nối liền căn cứ địa Cao Bằng với Bắc Sơn, Võ Nhai và thông xuống nữa nối liền với phong trào cả nước.
Từ tháng 2-1943 đến khoảng giữa tháng 10-1943, có 19 đội xung phong Nam tiến xuất phát từ Tam Kim (Nguyên Bình), qua xã Cốc Đán (Ngân Sơn)... hoạt động trên các tuyến đường Nam tiến. Đồng thời, từ Cao Bằng cũng đã tổ chức được những đội xung phong hoạt động theo các hướng “Đông tiến” và “Tây tiến” để tuyên truyền và gây dựng cơ sở cách mạng. Nhờ đó, căn cứ Cao - Bắc - Lạng được mở rộng, lan dần sang các tỉnh lân cận, con đường quần chúng cách mạng, một hành lang của Đảng, của Mặt trận Việt Minh được hình thành.
Để chuẩn bị cho hành trình, Bác Hồ thành lập Tiểu đội bảo vệ gồm 12 người. Tổng cộng đoàn đi với Bác từ Pác Bó về xuôi có 25 người. Ngày 4/5/1945, Đoàn xuất phát từ Pác Bó, đi theo con đường Nam tiến mà Người đã chỉ đạo, các đồng chí chuẩn bị từ trước. Sau 10 ngày di chuyển qua nhiều địa danh, ngày 14/5/1945, Đoàn vượt “Núi Cứu Quốc” qua Kheo Cáo, qua bản Pác Phai dưới chân núi Phia Bioóc.
Ngày 15/5/1945, Bác đến Bản Cải, Phương Viên, ngày 17/5/1945, Bác đến Nà Kiến, cũng là nơi gặp nhau của đoàn quân Nam tiến với đoàn quân Bắc tiến. Ngày 21/5/1945, Đoàn Nam Tiến đến đình Hồng Thái, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương. Đồng chí Chu Văn Tấn và đồng chí Song Hào cùng một số cán bộ có mặt đón Bác Hồ. Người vào làng Tân Lập, ở tại nhà ông Nguyễn Tiến Sự, Chủ nhiệm Việt Minh. Sau đó, Bác chuyển lên lán Nà Lừa. Bác về Tân Trào, triệu tập Quốc dân Đại hội, thành lập Ủy ban Giải phóng, phát lệnh tổng khởi nghĩa.
Quốc dân Đại hội tại Tân Trào
![]() |
| Đình Tân Trào, huyện Sơn Dương cũ (Tuyên Quang), nơi diễn ra Quốc dân Đại hội ngày 16/8/1945. (Ảnh: Tư liệu TTXVN) |
Đầu tháng 6-1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập Khu giải phóng gồm 6 tỉnh: Cao Bằng - Bắc Kạn - Lạng Sơn - Hà Giang - Tuyên Quang - Thái Nguyên và một số vùng phụ cận thuộc các tỉnh Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái, chọn Tân Trào làm Thủ đô Khu giải phóng. Tại Tân Trào, thời cơ tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền đã đến.
Lãnh tụ Hồ Chí Minh xác định: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng kiên quyết giành cho được độc lập”. Từ ngày 14 đến 15/8/1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị toàn quốc của Đảng. Hội nghị khẳng định “Cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới” và đưa ra quyết định tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Từ ngày 16 đến 17/8/1945, hơn 60 đại biểu toàn quốc đại diện các đảng phái chính trị, đoàn thể cứu quốc, dân tộc, tôn giáo tham dự Quốc dân Đại hội tại đình Tân Trào. Đại hội biểu thị ý chí, quyết tâm sắt đá giành độc lập của toàn thể nhân dân Việt Nam; cử ra Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch; thông qua 10 chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh, quy định Quốc kỳ, Quốc ca.
Ngày 13/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc ban hành "Quân lệnh số 1", kêu gọi đồng bào, chiến sĩ toàn quốc ủng hộ và tham gia khởi nghĩa, giành chính quyền cách mạng. Quân lệnh nêu rõ “Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng. Tổ quốc đang đòi hỏi những hy sinh lớn lao của các bạn. Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta”.
Quân lệnh số 1 đã trở thành một mệnh lệnh lịch sử, mở ra tổng khởi nghĩa trên phạm vi toàn quốc. Quân lệnh số 1 được ban hành trong bối cảnh tình hình hết sức khẩn trương và gấp gáp. Nhật Bản đã tuyên bố đầu hàng quân Đồng minh, chính quyền bù nhìn thân Nhật đang mất kiểm soát. Nhiều địa phương đã nổi dậy, sẵn sàng hưởng ứng lời kêu gọi của Việt Minh.
Trong bối cảnh đó, Trung ương Đảng và Bác Hồ quyết định chớp lấy thời cơ để giành chính quyền trước khi quân Đồng minh tiến vào Việt Nam. Thi hành Quân lệnh Tổng khởi nghĩa, lực lượng vũ trang của ta, cụ thể là đội quân Việt - Mỹ do đồng chí Võ Nguyên Giáp đứng đầu, từ Tuyên Quang tiến về Thái Nguyên đánh phát xít Nhật, làm chỗ dựa tinh thần cho cuộc đấu tranh giành chính quyền tại Thái Nguyên và cả nước.
(còn nữa)









Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin