Hỏi - Đáp về nghị quyết và các văn bản, kết luận của Hội nghị Trung ương 9, khóa X (Phần 1)

14:39, 15/04/2009

Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành TW 9, khóa X là một nghị quyết quan trọng, khẳng định những kết quả cơ bản toàn Đảng toàn dân ta đã thực hiện trong nửa nhiệm kỳ; đồng thời đưa ra nhiều giải pháp lớn nhằm tiếp tục thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng. Để bạn đọc thuận lợi trong việc nghiên cứu, học tập và triển khai thực hiện nghị quyết, Báo Thái Nguyên điện tử đăng toàn văn tài liệu hỏi - đáp về Nghị quyết và các văn bản kết luận của Hội nghị.

Phần thứ nhất
VỀ NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG 9, KHÓA X "MỘT SỐ NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP LỚN NHẰM TIẾP TỤC THỰC HIỆN THẮNG LỢI NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI TOÀN QUỐC LẦN THỨ X CỦA ĐẢNG"

Hội nghị Trung ương 9, khóa X đã thảo luận Báo cáo của Bộ Chính trị “Kiểm điểm thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng trong nửa đầu nhiệm kỳ (2006 - 2008) và ban hành Nghị quyết “Một số nhiệm vụ, giải pháp lớn nhằm tiếp tục thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng”. Sau đây là những nội dung chính của Nghị quyết.

Câu hỏi 1: Việc thực hiện Nghị quyết Đại hội X trong nửa đầu nhiệm kỳ (2006 – 2008) diễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước như thế nào ?

Trả lời:
 Về tình hình quốc tế, Nghị quyết nhận định :"Từ sau Đại hội X, tình hình thế giới và khu vực thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức tạp". Cụ thể là:
- Cách mạng khoa học – công nghệ và toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ.  Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, khủng bố quốc tế, bất ổn chính trị – xã hội, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ giữa một số nước tiếp tục diễn biến phức tạp.
- Thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng năng lượng, ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu trở thành những vấn đề nghiêm trọng trên quy mô toàn cầu.
- Từ cuối 2007 nền kinh tế Mỹ lâm vào khủng hoảng tài chính nặng nề, lan rộng ra nhiều nước, gây ra suy thoái kinh tế thế giới.
 Về tình hình trong nước, Nghị quyết nêu rõ: “Sau hai năm 2006, 2007 phát triển thuận lợi, từ cuối năm 2007 và năm 2008 kinh tế gặp nhiều khó khăn". Cụ thể là:
- Một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô mất cân đối, đầu năm lạm phát cao, cuối năm suy giảm kinh tế.
- Thiên tai, dịch bệnh liên tiếp xảy ra.
- Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá và can thiệp vào công việc nội bộ nước ta, kích động bạo loạn, lật đổ và đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến” trong nội bộ ta.

Câu hỏi 2: Trung ương đánh giá tình hình phát triển kinh tế trong nửa đầu nhiệm kỳ Đại hội X của Đảng như thế nào?

Trả lời:
 Nghị quyết nêu những thành tựu nổi bật là:
- Kinh tế cơ bản ổn định và duy trì được tốc độ tăng trưởng tương đối cao (bình quân 3 năm 2006 – 2008 đạt 7,6%/năm).
- Năng lực sản xuất và quy mô tổng sản phẩm trong nước tăng lên (GDP tăng từ 53 tỉ USD năm 2003 lên 88,7 tỷ USD năm 2008). Kết cấu hạ tầng tiếp tục được cải thiện.
- Huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển, nhất là từ khu vực kinh tế ngoài nhà nước, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt cao.
- Các thành phần kinh tế đều có bước phát triển.
- Doanh nghiệp nhà nước tiếp tục được sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa, kiện toàn các tổng công ty, thí điểm thành lập một số tập đoàn kinh tế nhà nước ở các lĩnh vực then chốt, từng bước nâng cao hiệu quả, là công cụ quan trọng của Nhà nước điều tiết nền kinh tế, củng cố một bước vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần.
- Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện.
Nghị quyết nêu những khuyết điểm, yếu kém chủ yếu sau:
 - Ổn định kinh tế vĩ mô chưa thật vững chắc, còn tiềm ẩn các yếu tố mất ổn định.
- Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, chậm cải thiện; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Huy động và sử dụng các nguồn nội lực và ngoại lực vào phát triển kinh tế – xã hội còn hạn chế, hiệu quả còn thấp. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2008 chậm lại. Chưa thu hẹp được khoảng cách phát triển so với các nước trong khu vực.
- Việc đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể còn nhiều hạn chế.
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh nhưng cơ cấu đầu tư chưa đáp ứng được yêu cầu, còn ít các dự án có công nghệ tiên tiến.
- Những yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường chậm được tăng cường.
- Việc xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế; quản lý, điều hành nền kinh tế có lúc còn lúng túng, bị động.

Câu hỏi 3: Đánh giá của Trung ương về phát triển giáo dục - đào tạo; khoa học – công nghệ; y tế, văn hóa, xã hội; bảo vệ tài nguyên, môi trường  như thế nào ?

Trả lời:
 Nghị quyết nêu những thành tựu nổi bật là:
- Giáo dục – đào tạo được quan tâm nhiều hơn và đạt được một số tiến bộ. Đã triển khai thực hiện có kết quả các chính sách phát triển giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, đại học và đào tạo nghề.
- Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ có đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế – xã hội.
- Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân được quan tâm, mức độ hưởng thụ các dịch vụ y tế của người dân tăng lên.
- Văn hóa, thông tin, thể thao tiếp tục phát triển.
- Giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, thực hiện chính sách đối với người có công với nước và các chính sách an sinh xã hội đạt kết quả tích cực.
- Công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường được chú trọng nhiều hơn.
 Nghị quyết nêu những khuyết điểm, yếu kém là:
- Giáo dục – đào tạo còn nhiều hạn chế, có mặt yếu kém kéo dài, gây bức xúc trong xã hội nhưng chậm được khắc phục.
- Đầu tư cho khoa học – công nghệ còn thấp, chưa theo kịp yêu cầu phát triển đất nước.
- Chất lượng công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân, đặc biệt là ở cơ sở còn thấp; bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm bị coi nhẹ.
- Sự phát triển và chất lượng các hoạt động văn hóa, thông tin, thể thao còn nhiều mặt yếu kém kéo dài.
- Chính sách tiền lương, thu nhập chưa hợp lý, chậm được sửa đổi; cuộc sống của nhân dân còn nhiều khó khăn, mức sống của một bộ phận nhân dân bị giảm sút. Một số vấn đề xã hội bức xúc chậm được giải quyết.
- Quản lý tài nguyên, môi trường lỏng lẻo; tình trạng khai thác tài nguyên và cơ sở sản xuất, kinh doanh gây ô nhiễm môi trường diễn ra phổ biến; một số trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng.

Câu hỏi 4: Đánh giá của Trung ương về lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại như thế nào ?

Trả lời:
Nghị quyết nêu những kết quả chính sau:
- Ðộc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc được bảo vệ vững chắc; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; quốc phòng, an ninh được tăng cường.
- Sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội được phát huy; thế trận lòng dân được củng cố.
- Xây dựng lực lượng vũ trang được đẩy mạnh và đạt được kết quả tích cực.
- Hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế tiếp tục phát triển; vị thế, uy tín nước ta trên thế giới được nâng cao.
Nghị quyết nêu những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm chủ yếu là:
- Nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới còn hạn chế.
- Việc kết hợp giữa phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng và an ninh có lúc, có nơi chưa chặt chẽ.
- Công tác bảo vệ an ninh trên một số lĩnh vực còn sơ hở, tiềm ẩn những yếu tố phức tạp.
- Công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược về đối ngoại còn hạn chế, yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu.
- Sự phối hợp hoạt động đối ngoại trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh có lúc, có nơi chưa nhịp nhàng, đồng bộ.