
Khi xác định rời xa quê hương, gia đình, người thân đi lao động nơi đất khách mỗi người đều mong muốn có công việc ổn định, thu nhập cao để gửi về cho gia đình, Chị Nguyễn Thị Hương, xóm Phúc Tài, xã Phúc Thuận (Phổ Yên) đi xuất khẩu lao động cũng hy vọng có chút lưng vốn nhưng khi đặt chân đến Đài Loan, trong chị lại cháy lên một niềm đam mê khác.
Hành trang trở về quê hương, gia đình của chị Hương sau 6 năm lao động tại Đài Loan đã làm cho bạn bè, người thân thật sự ngỡ ngàng. Ngoài những vật dụng cá nhân và một chút quà cho anh em họ hàng, trong hành lý của chị là những dụng cụ pha chè (panh gắp chén uống nước, thìa gỗ xúc chè, ấm pha chè, ấm hãm nước, chén sứ, khay...), những cuốn sách hướng dẫn cách chế biến, bảo quản chè... Và có lẽ giá trị nhất là những kinh nghiệm, kỹ thuật về chăm sóc, chế biến và bảo quản chè của người Đài Loan mà những người dân ở quê chị đã trồng chè hàng trăm năm nay chưa từng làm.
Sinh ra và lớn lên ở Phúc Thuận, gia đình chị làm chè nên từ nhỏ chị Hương đã được tiếp xúc với cây chè và kỹ thuật trồng, chăm sóc, chế biến từ thủ công, truyền thống như vò chè bằng tay, xao suốt bằng chảo gang cho đến dùng tôn quay sao chè, bằng điện nhưng chất lượng chè vẫn chỉ dừng lại ở mức trung bình. Thời gian bảo quản chè ngắn nên sản phẩm chè ở quê hương chị chưa được nhiều người biết đến.
Năm 2001, chị Hương đi xuất khẩu lao động ở Đài Loan và làm việc tại Bệnh viện điều dưỡng. Tình cờ trong câu chuyện với một bệnh nhân rất thích uống chè, biết chị là người Việt Nam, lại sống ở mảnh đất Thái Nguyên - nơi có thương hiệu chè nổi tiếng nên đã tặng chị một gói chè Đài Loan để uống cho đỡ nhớ quê hương. Nhìn hình thức bên ngoài thì gói chè không khác gì chè ở quê hương chị nhưng khi vừa đổ nước sôi vào ấm thì mùi hương lan toả thơm ngát, uống nước rất đậm và ngon. Điều chị quan tâm nhất là thời gian bảo quản in trên bao bì. Nghĩ lại ở quê, sau khi chè được sao khô, người dân thường dùng túi nilông để gói chè nên hương chè chỉ giữ được khoảng 2 tuần, vậy mà ở đây thời gian bảo quản chè tới 2 năm. Gói chè chị uống trên bao bì ghi ngày sản xuất cách đó đã gần 1 năm nhưng vẫn còn nguyên hương thơm như chè vừa mới sao xong.
Tò mò về kỹ thuật bảo quản chè nhưng để tìm hiểu sâu chị đã cố gắng học tiếng Đài Loan. Ban ngày thì đi làm, tối chị đi học thêm. Nhiều bệnh nhân biết cô hộ lý người Việt rất thích uống chè, tìm hiểu về cây chè nên gặp chị là nói chuyện về chè, lại còn tặng chị những cuốn sách, bài báo liên quan đến cách trồng, chăm sóc và chế biến chè của người dân Đài Loan. Những ngày nghỉ, ngày lễ, chị một mình lang thang đến những vùng trồng chè tìm hiểu cách làm của họ, đặc biệt là phương pháp chế biến, bảo quản. Ở Đài Loan, chị quen biết gần chục ông chủ chuyên sản xuất chè, thấy chị nhiệt tình nên họ đã tư vấn, hướng dẫn cho chị phương pháp bảo quản chè theo công nghệ hút chân không (dùng máy hút hết không khí trong túi chè).
Năm 2006, trở về Việt Nam, với những kiến thức, hiểu biết về cây chè mà chị tìm hiểu hiểu được, chị đã quyết tâm áp dụng với cây chè ở Phúc Thuận. Mấy năm xa quê, nhưng cách chế biến chè của bà con vẫn không mấy thay đổi, chỉ xuất hiện thêm những diện tích chè cành và cách chăm sóc theo phương pháp an toàn sinh học. Cuối năm 2007, chị Hương đã quyết định thành lập Công ty cổ phần Vạn Tài áp dụng công nghệ hút chân không để bảo quản chè và chế biến loại chè long có chất lượng cao. Để làm được điều đó, chị đã nhiều lần trở lại Đài Loan, gặp gỡ những ông chủ làm chè để nhờ tư vấn và mua 3 máy hút chân không, 3 máy ủ hương chè nguyên chiếc từ Đài Loan.
Đưa chúng tôi đi thăm diện tích chè cành gần 4ha của Công ty, chị Hương cho hay: Hiện nay, nguồn nguyên liệu chủ yếu là 10ha chè cành trong đó có 6ha của gần 50 hộ trồng chè trong xã đã ký hợp đồng cung cấp chè tươi cho Công ty. Công ty cung cấp vật tư, kỹ thuật để bà con trồng chè với nguyên liệu đảm bảo chất lượng. Ngoài ra, chúng tôi còn thu mua chè tươi của các hộ dân trên địa bàn với giá 8.000-10.000 đồng/kg đối với chè trung du, 16.000 đồng/kg chè cành. Đối với các hộ dân ký hợp đồng, chúng tôi cử 2 cán bộ của Công ty (đã tốt nghiệp chuyên ngành Nông nghiệp, có kinh nghiệm sản xuất chè) phổ biến kiến thức trồng, chăm sóc và giám sát. 100% diện tích chè nguyên liệu của Công ty sử dụng phân hữu cơ đã qua xử lý. Do đó, sản phẩm của Công ty không có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật.
Được biết, bao nhiêu vốn liếng tích luỹ của mấy năm xa quê, chị còn phải vay thêm bạn bè, người thân để thành lập Công ty với số vốn điều lệ 3 tỷ đồng. Công ty đang hoàn tất thủ tục để vay vốn của Trung ương Đoàn với số tiền 350 triệu đồng. Cùng với ổn định tổ chức, xây dựng vùng nguyên liệu, Công ty đã cho ra đời sản phẩm: Xuân trà, chè xanh, trà Ô long được thị trường trong và ngoài nước đón nhận. Đích thân chị học cách chế biến chè Ô long- một loại chè chất lượng cao chủ yếu xuất khẩu sang Đài Loan với giá từ 700.000 đồng đến 3 triệu đồng/kg. Do đầu tư ban đầu quá lớn nên Công ty chưa có dây chuyền chế biến chè Ô long, vì thế chè sau khi sơ chế Công ty phải gửi một số cơ sở chế biến chè của Đài Loan tại Việt Nam (Bắc Kạn, Lâm Đồng, Lào Cai...). Hiện nay, sản phẩm của Công ty cung cấp chủ yếu cho thị trường T.P Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hưng Yên...
Sản phẩm chè của Công ty cổ phần Vạn Tài hiện có thị trường tiêu thụ rất lớn. Chị Hương dự định xây dựng vùng nguyên liệu, mở rộng sản xuất, phấn đấu mỗi tháng xuất khẩu từ 20-40 tấn chè các loại, hiện nay, Công ty mới sản xuất được khoảng 40 tấn chè khô/năm, giải quyết việc làm cho 48 lao động với mức thu nhập bình quân 1,5 triệu đồng/tháng chủ yếu là thanh niên. 35 tuổi vẫn còn rất nhiều thời gian và cơ hội để chị Hương thực hiện được tâm huyết của mình với cây chè.






