Trang thơ

Nhiều tác giả 10:06, 29/07/2025

Từ "Tổ quốc" của Nguyễn Hữu Quý vang vọng âm hưởng hùng ca đưa người đọc đi qua một hành trình – từ chiến tranh đến hòa bình, từ nỗi nhớ đến niềm tin son sắt, đến “Chảy bằng tiếng gọi” của Lữ Mai thấm đẫm chất bi tráng nơi Thành cổ Quảng Trị. Những câu thơ của Tô Hoàn, Đinh Hạ, Nguyễn Văn Song, Phan Đại Duy… là những nén hương lòng rưng rưng trước anh linh các anh hùng liệt sĩ. “Thư gửi người còn sống” của Quách Mộc Ngôn – một bản “thi thư” gửi hậu thế, nhắc nhở về ký ức không thể lãng quên. Còn “Viết ở trại thương binh” (Trần Văn Lợi)“Ống áo bạc sương” (Lã Thị Thông) lại ngợi ca nghị lực sống và vẻ đẹp tinh thần của người lính trở về.

Không hào nhoáng, không lên gân, những bài thơ viết bằng cảm xúc thật, trải nghiệm thật, từ những người lính, người mẹ, người ở lại và cả người ra đi.

Trang thơ mở ra một không gian hoài niệm, tri ân và lay thức tâm hồn  – nơi quá khứ không ngủ yên mà lặng lẽ soi chiếu vào hôm nay bằng ánh sáng của sự hy sinh và phẩm giá.

(Nhà thơ Nguyễn Thúy Quỳnh chọn và giới thiệu)

Nguyễn Hữu Quý

Tổ quốc

Tôi thương từng ngọn gió hoà bình

thổi qua những dòng sông màu lửa

áo lính sang đò rụt rè về gõ cửa

trong mơ hồ bật dậy tiếng "Mẹ ơi!"

 

Đêm trôi vào những giấc mơ xa xôi

mẹ trở giấc giật mình mùa gặt dở

mùi gạo mới châng lâng thơm đầu ngõ

cánh đồng làng nức nở ôm con!

 

Tổ quốc, tôi gọi tên từ những bàn chân

giữa trùng điệp hoá linh hồn của đá

mãi mãi ngân vang trong bước đi của gió

ngàn năm, ngàn năm, ngàn năm, ngàn năm...

 

Tổ quốc vẽ mặt trăng rằm

bằng những dòng sông khuyết

vành vạnh phù sa nâng cây đàn nguyệt

lẫy lên cung bổng cung trầm

 

Nhân dân ta gót sạn vai bầm

tin nguồn cội nên tìm về Đất Tổ

xoan vẫn tím tháng Ba như hằng nhớ

chim Lạc bay qua Nghĩa Lĩnh muôn đời

 

Tổ quốc mái tranh, võng đay, chiếu cói

thời anh yêu em thư viết bút Trường Sơn

mực Cửu Long dòng tâm tình sóng gợn

ta lấy non sông làm điểm tựa tâm hồn

 

Ta vời vợi trong bao la nắng sớm

ngắm Tổ quốc phấp phới Trường Sa

thương lắm Hoàng Sa chưa về với Mẹ

Tổ quốc, niềm đau đâu dễ nói thành lời!

 

Ta trồng cây cho chim về xây tổ mới

nâng niu bình yên trong mỗi tiếng hót lành

Tổ quốc, tôi nghe trong mỗi làn mây trắng

bay qua nẻo làng thấp thoáng bóng thời gian...

 

 

Lữ Mai

Chảy bằng tiếng gọi

 

Trong cơn mơ cờ lau Quảng Trị…

 

Sông chảy bằng tiếng gọi người xưa

mẹ ru con ngọt lời trăng trối

gió thành cổ bóng hình áo vải

mỗi bước một lần nhớ tên ai

 

buốt bờ Hiền Lương

máu nhỏ cờ lau xứ cát

gạch toác đêm bom nổ vội

mọi giấc mơ đều vướng mảnh xương trồi

 

sông cắt đôi tang trắng

em qua cầu, chưa kịp gọi, đã xa

người nằm xuống nơi này không có tuổi

hàng cây thay lời gọi hồn xanh

 

chín trăm chín mươi bậc đá

không vắt lên trời mà bổi hổi lòng dân

gió Quảng Trị nơi hồi sinh tiếng đất

trong vết bom nở hoa tím không ngờ

 

thiếu nữ gánh rau ra chợ sớm nhìn lên

rơm rớm

sắc cờ.

 

 

Tô Hoàn

Gọi bạn Trường Sơn

(Viết cho Tuất )

 

Bao lần về chốn rừng xưa

Mình đi tìm bạn nắng mưa bã bời

Tuất ơi! Ơi Tuất! Tuất ơi!

Sao không nghe lấy những lời của nhau?

 

Tuất nằm đâu? Tuất ở đâu?

Trời thì cao, đất thì sâu quá chừng

Trường Sơn tứ phía mịt mùng

Gió hoang cùng với cây rừng bủa vây.

 

Ước mơ một thuở đang đầy

Bỗng dưng cơn sốt biến ngày thành đêm

Nhạt nhoà cả tấm hình em

Bao lời mẹ dặn Tuất quên hết rồi.

 

Cánh rừng rung vã mồ hôi

Hay là cơn sốt suốt thời chiến tranh

Vết đau vá mãi chưa lành

Tuất thành cây cỏ vô danh giữa rừng.

 

Trường Sơn vẫn những trập trùng

Tuất ơi!  Mình gọi…  Rưng rưng bóng chiều.

 

 

Đinh Hạ

Vọng khúc biển

 

Vòng hoa gửi sóng cuốn đi

Tế linh khấn thỉnh thầm thì cầu mong

Nỗi đau mặn phía biển Đông

Khắc bia mộ gió vào trong tim người.

 

Xưa lời ru mẹ chia đôi

Nửa phần máu thịt ngoài khơi đất mình

Thuyền nan vời vợi hành trình

Chắn che sóng dữ trung trinh lời thề.

 

Phu binh bó chiếu đòn tre

Thuở nào cưỡi sóng đi về đảo xa

Máu đào thấm đỏ Gạc Ma

Thuở nào hiệu triệu bài ca ngăn thù.

 

Khói hương phảng phất ưu tư

Tuổi xanh dựng mốc bao giờ bình yên

Giữ thềm lục địa thiêng liêng

Đâu cần sử sách lưu tên tượng đài

 

Câu thề vẫn trĩu nặng vai

Biển khơi đóng cọc vành đai trường thành

Nghìn năm xương máu vô danh

Lời ru thăm thẳm viền quanh bãi bờ.

 

 

Nguyễn Văn Song

Cỏ thơm

 

Nghĩa trang tháng Bảy khói sương

Muôn ngàn ngọn cỏ tỏa hương giữa trời

Bao nhiêu cỏ bấy nhiêu đời

Nhắn gì mà cứ xanh rời rợi xanh

Cỏ hay là bác, là anh

Trộn xương, hoà máu làm thành nước non?

Đá kia nước chảy cũng mòn

Nghĩa trang mưa nắng cỏ còn thiên thu

Tôi nghe có tiếng cỏ ru

Rì rầm trong gió ngỡ như rất gần

Lời ru hay nỗi thương thầm

Phía làng mẹ đứng tần ngần đợi mong?

Cỏ xanh thơm đến mênh mông

Tôi ngồi với cỏ thấy lòng ấm lên

Cỏ thơm như vạn ngôi đền

Giữ gìn cho đất một miền yêu thương

Nghĩa trang tháng Bảy khói sương

Ai về có thấy dậy hương đất này?

Xin nâng thật nhẹ gót giày

Lắng nghe hồn cỏ thơm bay giữa đời.

 

Phan Đại Duy

Viết về các anh

 

Tôi gặp một người lính

Trên ngực không còn huy chương

Chỉ còn một vết sẹo

Dài như chiều dài của biên giới

Và im lặng như một lời thề

Chưa từng được nói ra.

 

Họ không đòi hỏi

Hoa, trống, hay diễn văn

Chỉ mong giấc ngủ đêm nay không bị đánh thức

Bởi tiếng nổ trong ký ức

Vẫn chưa chịu ngừng vang.

 

Tổ quốc

Không chỉ là bản đồ có viền đỏ

Mà là những buổi sáng

Họ đứng giữa ranh giới

Giữa sống và không sống

Với một khẩu súng lạnh hơn lòng người

Nhưng nóng hơn nỗi sợ.

 

Họ đã từng yêu

Một người con gái

Không đủ can đảm chờ hết nhiệm kỳ biên cương

Họ đã từng uống

Nước giếng mùa khô

Mặn như giọt mồ hôi rơi xuống đất.

 

Không ai nhớ tên họ

Trong các buổi lễ

Nhưng đất nhớ

Bởi khi đi qua rừng

Cây nghiêng đầu chào họ

Bằng dáng mọc cong về phía hoàng hôn.

 

 

Quách Mộc Ngôn

Thư gửi người còn sống

(Tưởng nhớ Trung đội "Ký Con", Trung đoàn Bình Giã)

 

Phiến thu, phiến thu…

rụng đầy năm tháng

ngạt ngào rừng phả những chồi non

như phong thư cuộn tròn

gửi người còn sống

 

nắng đòng đưa cánh võng

rầm rập những bàn chân

tiếp bước người xưa đi mở cõi

một tấc không đi

một li không rời

bỏ mùa ve lỗi nhịp

mùa phượng nhàu khét

ngùn ngụt rừng khói đen ngòm

 

phiến thu lăn vòng

luân hồi phận lá

rừng phả những chồi non

chim say mùa quả ngọt

nhành lan trắng bên vách đá thì thầm

          xanh đất

xanh trời

xanh mãi tuổi hai mươi

những phong thư tròn cuộn

đòng đưa cánh võng

gửi người còn sống hôm nay.

 

Trần Văn Lợi

Viết ở trại thương binh

 

Có người thì hỏng mắt

Có người mất cánh tay

Xe lăn về họp mặt

Cùng nạng gỗ sum vầy.

 

Dẫu tàn nhưng không phế

Sống quây lại thành làng

Mở xưởng đóng bàn ghế

Tiếng chạm trổ vang vang.

 

Vẫn gọi nhau: Đồng chí!

Quý nhau trong một nhà

Lúc nhớ chiến trường cũ

Lại bần thần trông xa…

 

Khi trở trời trái gió

Lại đau buốt khắp mình

Vẫn còn bao chuyện kể

Cho lớp lớp học sinh.

 

Làng của người thương tật

Mà yêu thương thật lành

Sau đạn bom khói lửa

Mầm sống vẫn tươi xanh...

 

Lã Thị Thông

Ống áo bạc sương

 

Người thương binh làm thơ

Với một bàn tay đăm chiêu mắt tìm về xa thẳm

Ống tay áo một bên

Thắt lại nhói đau bao khắc khoải âm thầm

 

Người thương binh làm thơ

Viết về cỏ cây viết về tuổi mơ ngắn ngủi

Những ngày đợi nhau đi học

Lưng mẹ còng trong đục một dòng sông

 

Nét bút xê dịch trên những ngọn đồi những cánh rừng cháy lửa

Câu chữ oằn mình chớp bom nào xé toạc màn đêm

Về ngôi mộ cuối rừng vết thương từng lần tái phát

Vòng tròn ký ức không có tên mình

 

Người thương binh làm thơ

Viết về hôm nay, ngày mai dưới ánh mặt trời gieo chữ

Dòng sông của mẹ đục trong mùa cũ từng những tên cầu mới xây

Bài đồng ca trường làng vút ngân từ ngàn bông hoa trong suốt

Người thương binh làm thơ bằng cánh tay còn lại

Giữ mùa xuân trong ống áo bạc sương.