Lê Anh Xuân - Dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ

Vũ Hoàng 12:53, 03/09/2025

Nhìn lại đội ngũ nhà văn nhà thơ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, có không ít người ngã xuống nơi chiến trường khi tài năng đang bắt đầu vào độ chín. Có thể kể đến những cái tên như Vũ Đình Văn, Chu Cẩm Phong, Nguyễn Trọng Định, Dương Thị Xuân Quý, Nguyễn Thi… Và trong số đó, không thể quên nhà thơ - liệt sĩ Lê Anh Xuân. 

Chỉ hai mươi tám tuổi đời, Lê Anh Xuân để lại khoảng sáu mươi bài thơ, một trường ca (Nguyễn Văn Trỗi) và một tập văn xuôi (Giữ đất). Dù không nhiều về số lượng, song di sản ấy đủ để neo giữ vị trí anh trong thi ca Việt Nam hiện đại. Và thi ca cũng neo giữ anh như một biểu tượng của "dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ”.

Bài viết này như một nén tâm hương tháng Bảy, đi tìm bóng dáng của một thi sĩ - chiến sĩ, người đã sống, viết và ngã xuống bằng tất cả vẻ đẹp của tuổi trẻ, lòng yêu nước và đức tin vào Tổ quốc.

Lê Anh Xuân (1940-1968)
Lê Anh Xuân (1940-1968)

Nhà thơ Lê Anh Xuân làm thơ sớm và nhanh chóng có thành tựu. Bài thơ Nhớ mưa quê hương viết năm 1960 đã giành giải Nhì cuộc thi thơ Tạp chí Văn nghệ năm 1961 với bút danh Ca Lê Hiến. Năm đó Ca Lê Hiến đang là sinh viên khoa Sử, Đại học Tổng hợp Hà Nội.

Thơ Lê Anh Xuân ít bài ngắn, thường là những bài dài, chứng tỏ dung lượng cảm hứng lớn, cường độ cảm xúc mạnh của chủ thể thơ.

Bài thơ Nhớ mưa quê hương, ngay tên bài, gọi về trong người đọc cái “mẫu gốc”, cái “vô thức tập thể”. Ở đây, “mẫu gốc”, “vô thức tập thể” có thể hiểu là lớp ký ức sâu xa, chung trong mỗi người Việt, về mảnh đất quê cha đất tổ - thứ không dễ gọi tên nhưng luôn vang vọng. Mưa trở thành đường dẫn để kết nối, không chỉ hiện tại với quá khứ, mà còn là quá khứ với tương lai, trong một khối tổng hòa nhuyễn gộp giữa thời gian đằng đẵng đa chiều và không gian mênh mông đa cực đa giác.

Tác giả “nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa”. Mưa xa ở đây là mưa quê hương - quê nội. Mưa trên đất lạ gọi về, làm sống dậy cả một vùng trời ký ức tuổi thơ nhớ thương: ta yêu mưa như yêu gì thân thiết, như đất và người quê hương. Như định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng: và ta lớn tình yêu hòa biển rộng, cơn mưa nhỏ của quê hương ta đã sống, nay vỗ lòng ta rung động cả trăm sông. Mưa thanh tẩy, mưa hồi sinh: mưa ơi mưa, mưa gội sạch những cành non, mang đến mùa xuân những quả ngọt tươi ngon, đường tạnh ráo đất lên màu tươi nõn…

Riêng ý thơ sau đây thì chúng tôi thấy lạ, cho thấy tâm cảm rất riêng của chủ thể thơ: đó là nghe mưa như thác đổ, có chớp giật sóng gầm khiến tác giả liên tưởng đến tiếng hịch, đến lời hiệu triệu tiến công của cha ông.

Và cuối cùng, mưa làm ngập đầy cái khao khát bình yên, cái khát vọng hòa bình nơi tác giả: ta muốn về quê nội/ta muốn trở lại tuổi thơ/ta muốn nằm trên mảnh đất ông cha/nghe mưa đập cành tre, nghe mưa rơi tàu lá…

Ở Lê Anh Xuân, hình tượng thiên nhiên luôn được nhân cách hóa, chủ thể hóa cao độ - mang hồn người và vận mệnh dân tộc. Mưa, từ một hiện tượng khí hậu, đã trở thành biểu tượng của căn cước, của khát vọng hồi nguyên.

Nỗi nhớ quê hương trong thơ Lê Anh Xuân không chỉ là cảm xúc thuần túy, mà là ký ức sâu xa mang tính bản thể. Quê hương Bến Tre, quê hương Nam Bộ còn trở đi trở lại trong nhiều bài thơ khác của anh mà tiêu biểu là Trở về quê nội, từng được đưa vào sách giáo khoa chuyên ban khoa học xã hội những năm 1995-1998. 

Bài thơ Trở về quê nội không có nhiều câu thơ tài hoa, tuy nhiên, bù lại là cảm xúc thật và mạnh; có thể nói là chủ thể thơ đã thật sự xúc động hồn thơ khi viết bài thơ này. Sau mười một năm ra Bắc tập kết, trở về quê nội - một quê hương xanh biếc bóng dừa, tác giả bùi ngùi, mừng tủi, cảnh đấy người đâu, vì nhiều người thân đã ngã xuống đất này. Ta gặp lại những mặt người ta yêu biết mấy/ta nhìn ta ngắm ta say/ta run run nắm những bàn tay/thương nhớ dồn trong tay ta nóng bỏng.

Đoạn đường xưa tác giả đi cứ như chiêm mộng. Và ngày trở về, gặp lại mẹ lưng còng tóc bạc, tần tảo sớm hôm nuôi các anh dưới hầm bí mật, hai mươi năm mẹ giữ đất giữ làng, ôi mẹ là bà mẹ miền Nam. Rồi tác giả gặp lại “em” trong trắng thủy chung, giờ em là du kích, là giao liên, em chính là quê hương ta đó.

Quê hương đẹp quá, dù đổ nát điêu tàn. Trở về quê nội, đứa con của quê chỉ có trái tim chung thuỷ sắt son, và khẩu súng trong tay cháy bỏng căm hờn. Gọi về trong người đọc niềm tin tất thắng trong Tố Hữu: giặc sẽ chạy, tre làng ta lại mọc/chuối vườn ta xanh chồi/trâu ta ra bãi ra đồi/đồng ta lại hát hơn mười năm xưa..., và rộng hơn là giấc mơ tái sinh trong thơ ca Việt Nam: từ đất lửa mọc lên mầm sống, từ tàn phá trỗi dậy cội nguồn.

Dòng thơ viết về quê hương của Lê Anh Xuân còn phải được kể đến một số bài thơ tiêu biểu khác như Gởi Bến Tre, Qua Ấp Bắc, Nhìn về An Đức, Dừa ơi (bài Dừa ơi từng được đưa trích đoạn vào sách giáo khoa tiểu học giai đoạn 1986-1992). 

Không chỉ viết về miền Nam thân yêu, Lê Anh Xuân còn gửi tình cảm đặc biệt cho miền Bắc - nơi anh có thời gian tập kết, học tập, và coi như quê hương thứ hai. Những bài thơ anh viết về miền Bắc có thể kể đến như Lên Bắc Sơn, Đêm Uông Bí, Gởi miền Bắc. Đặc biệt, Thủ đô Hà Nội đi vào thơ anh qua một bài thơ dài mang tên Chào Hà Nội, chào Thăng Long

Bài thơ này là lời chào Hà Nội, chào Thăng Long, giữa đêm nghe chiến thắng reo vui, của những anh Giải phóng quân lớn lên bên sông Cửu Long, bên sông Vàm Cỏ, dưới bóng liễu sông Hương hay trên đỉnh Trường Sơn lộng gió. Bài thơ thêm lần nữa củng cố trong người đọc xác tín, rằng chúng ta đánh Mỹ giỏi vì bốn mươi thế kỷ cùng xuất trận trùng trùng, lớp lớp anh hùng tràn như sóng cuộn: từ Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung… cho đến La Văn Cầu, Phan Đình Giót, Cù Chính Lan… Mỗi tên cha anh là một ngọn đèn thành phố. Hà Nội là nơi có Bác Hồ, có đường Điện Biên bắt đầu từ Trần Phú…

Không chỉ bằng đấu tranh vũ trang, chúng ta đánh Mỹ và thắng Mỹ còn bằng sức mạnh mềm, bằng nội lực văn hoá: Hà Nội có Nguyễn Du và Truyện Kiều, có thành Thăng Long, có mùi hoa sữa, hoa lan, có Nhà hát lớn, có Hàng Đào, Hàng Bông 36 cánh hoa, có dấu xưa xe ngựa còn in trên nền cũ, có Tuyên ngôn Độc lập, có ngọn cỏ Ba Đình…

Và do vậy, chúng ta đánh Mỹ và thắng Mỹ bằng chiến lược quân sự “mưu phạt tâm công” - Hà Nội là nơi kết tinh quá khứ và phát sóng tương lai: Hà Nội ơi, Hà Nội ơi/một sắc trời thu kỳ diệu của Người/cũng giúp miền Nam đánh lui bóng tối/một giọng nói phát đi từ Hà Nội/đã thành chân lý đuổi quỷ ma/một đêm hồ Tây dìu dịu đường hoa/đủ đánh tan hàng triệu đô la Mỹ…

Chúng tôi đặc biệt ấn tượng với những câu thơ như: Hà Nội có tháp Rùa, đền Trấn Võ, gò Đống Đa/đẹp như dáng ông cha đang suy nghĩ. Những câu thơ gợi liên văn bản với Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi: quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh/ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ/những trằn trọc trong cơn mộng mị/chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi. Có nghĩa là chúng ta thắng lớn, là nhờ vào sức suy tư, suy nghĩ lớn của những bậc đại trí.

Từ bài Chào Hà Nội, chào Thăng Long, có thể thấy ở Lê Anh Xuân có cả một chất giọng tráng ca hào sảng của miền Bắc, song hành cùng chất giọng thủ thỉ tâm tình mượt mà đậm chất Nam Bộ. Chất giọng này sẽ in dấu vào nhiều bài thơ xuất sắc, mang đậm vẻ đẹp anh hùng ca và sử thi, đậm rõ nhất là bài Việt Nam ôi Việt Nam được viết vào tháng 9-1965. 

Hình tượng Tổ quốc trong bài thơ Việt Nam ôi Việt Nam vừa quen vừa lạ. Quen vì liên văn bản với nhiều bài thơ khác trong mạng lưới lịch đại và đồng đại; lạ vì sự sáng tạo độc đáo của nhà thơ Lê Anh Xuân.

Trường THPT Lê Anh Xuân
Trường THPT Lê Anh Xuân

Tổ quốc là một dải giang sơn nắng chan hoà bốn mùa rực rỡ, đất xanh một sắc với da trời, khi mùa về đất bỗng nở vàng tươi, là những dòng sông nước đỏ, những chân trời biển khơi sóng vỗ, những rừng cổ thụ ngút ngàn, sừng sững dãy Trường Sơn, phơi phới ngàn lau trắng xoá…

Tổ quốc là những mặt người đẹp quá, như hoa sen trong đầm sen, những đôi mắt Việt Nam rất đen, nở ra những cái nhìn ánh sáng…

Tổ quốc rất đỗi kỳ diệu, bởi những bàn tay chai sạn đã nhào nặn bùn lầy thành đồng lúa vàng thơm, đã cầm giáo, cầm gươm, cầm súng, chuyền tay nhau gìn giữ đất cha ông…

Tổ quốc là lớp lớp anh hùng không chịu cúi đầu, lên đường chiến đấu, những anh hùng xưa còn trẻ đến bây giờ, những thế hệ hôm nay đánh Mỹ tuổi anh hùng đã bốn ngàn năm…

Tổ quốc là đất mẹ hiền yêu quý, đất anh hùng đánh Mỹ, chiến thắng là mặt trời không bao giờ lặn, Tổ quốc ta đêm ngày ngập nắng…

Tổ quốc mang tên đẹp nhất: Việt Nam, nối vòng tay lớn, không chỉ hai miền Nam Bắc, mà còn cả bốn biển năm châu, lưng dựa vào truyền thống lịch sử bốn ngàn năm, ngực đón hứng gió thời đại…

Đó là một Tổ quốc được dệt bằng mồ hôi của người cày, trí tuệ của người thầy, nước mắt của người mẹ và máu của những người con. Một Tổ quốc như thế, “kẻ thù nào cũng đánh thắng” là tất yếu.

Và bài thơ cuối cùng của Lê Anh Xuân được anh viết trước ngày hy sinh hai tháng, chính là tuyệt bút Dáng đứng Việt Nam. Hai chữ Việt Nam thiêng liêng kiêu hãnh không phải đến bây giờ mới xuất hiện trong thơ Lê Anh Xuân nhưng cho đến thi phẩm này là một sự kết tinh và độc sáng đặc biệt, có cảm giác anh viết bài thơ ấy cho tất cả những người lính đã ngã xuống và cho cả chính mình.

Bài thơ Dáng đứng Việt Nam là một thăng hoa của bút lực thơ Lê Anh Xuân, làm nên bút hiệu Lê Anh Xuân, tiêu biểu cho cảm hứng sử thi trong thơ Lê Anh Xuân, củng cố xác tín, dân tộc Việt Nam là dân tộc vĩ đại, con người Việt Nam là những con người anh hùng, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam là cuộc kháng chiến thần thánh…

Anh Giải phóng quân là hình tượng đẹp như huyền thoại, vừa bình dị sáng trong vừa dũng cảm quật cường.

Họ vô hình, trước lúc lên đường không một tấm hình, nhưng để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ.

Họ vô danh, trước lúc lên đường không một dòng địa chỉ, nhưng tên đã thành tên đất nước.

Anh Giải phóng quân chính là hiện thân của những con người đã sống và chết, giản dị và bình tâm, không ai nhớ mặt đặt tên nhưng đã làm ra đất nước (như ý thơ Nguyễn Khoa Điềm), chính là hiện thân của những con người sống đẹp, mang trái tim giàu, biết dâng hiến, biết lẽ phải, yêu thương, căm giận, biết đi tới và làm nên thắng trận (như ý thơ Tố Hữu).

Dáng đứng Việt Nam không chỉ là một bài thơ, mà là một tượng đài. Không chỉ tượng đài cho người lính vô danh, mà còn cho cả một dân tộc đã đi qua chiến tranh bằng sự “giản dị và bình tâm”.

Bên cạnh thơ về quê hương đất nước với nhiều bài đậm chất anh hùng ca, Lê Anh Xuân cũng để lại một số bài thơ tình. Có những bài rất ngắn gọn cô đọng như bài Em là mùa xuân chỉ có tám câu: Em đi nắng mùa xuân vây quanh/Em hát như cành xanh chim hót/Hơi thở em dìu dịu hương lành/Em là mùa xuân đến thăm anh/Có gió em ơi lá trở mình/Cho xuân đến cả hai bề lá biếc/Em đến thăm anh mùa đông đi hết/Cho mùa xuân về trọn giữa lòng anh. Nhưng bài thơ tình được nhiều người nhắc đến nhất của Lê Anh Xuân là Anh là con sông chảy trước nhà em.

Nếu những bài thơ sử thi của Lê Anh Xuân vang vọng khí phách của một dân tộc, thì thơ tình của anh lại là khúc lặng dịu dàng, một khoảng thở ấm áp giữa bom rơi.

Thơ Lê Anh Xuân là một sự kết hợp hài hòa giữa lý trí và xúc cảm, giữa chất sử thi và chất trữ tình, giữa bản lĩnh cốt cách dân tộc và hơi thở con người. Thơ anh là một trong những tiếng thơ đã góp phần làm nên diện mạo thi ca Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ - không phải bằng số lượng đồ sộ, mà bằng phẩm chất sáng chói của những câu thơ như có lửa: lửa của yêu thương, của khát vọng hiến dâng, của tinh thần quật khởi. 

Trong những ngày tháng Bảy, những thế hệ đi sau không bao giờ quên xương máu của cha ông đã đổ xuống vì sự toàn vẹn lãnh thổ, vì chủ quyền độc lập tự do của Tổ quốc, trong đó có những nhà thơ - chiến sĩ - liệt sĩ như Lê Anh Xuân. Anh đã sống như một thi sĩ, đã viết như một chiến sĩ, và đã rực sáng như một vì sao của thế hệ mình. Trong ký ức dân tộc, anh không chỉ là thi sĩ mãi mãi trẻ tuổi, mà còn là “dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ”.