Nguyễn Quang Thiều
Dâng trà
Thưa cha, con đã dâng trà
Chiều quê một nửa mái nhà nắng đi
Làng nghèo ngồi đếm chim ri
Con nghèo con đếm thầm thì trong mơ
Con sao tìm lại ấu thơ
Mà roi cha vẫn gác hờ mái hiên
Con từng ba dại bảy điên
Chén trà con rót tràn niềm đắng cay
Phận con nhàu trọn lòng tay
Một câu thơ bạc một ngày vô ơn
Chén trà, con có gì hơn
Mời cha rồi nuốt tủi hờn sau cha
Thưa cha, con đã dâng trà
Sao cha im lặng như là bóng mây
Để hồn trà khuất đâu đây
Xác trà lạnh ngắt đổ đầy lòng con…
Lời bình
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều là một gương mặt sáng giá trong nền thơ hiện đại của Việt Nam. Với tập thơ “Sự mất ngủ của lửa” (Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1993) ông đã nhóm lên ngọn lửa tình yêu thi ca bằng nhiệt huyết đam mê sáng tạo truyền một năng lượng cảm hứng mới, tạo ra một từ trường thơ mới ở sự cách tân thi pháp.
Thơ Nguyễn Quang Thiều gắn với cội nguồn với làng Chùa đã truyền tải bao thông điệp nhân văn mới mẻ mà vẫn neo rất chắc vào mạch nguồn nơi ông sinh ra, lớn lên và trưởng thành rồi trở về với cố hương thơ của mình trong đó có bao gương mặt người thân. Bài thơ “Dâng trà” được viết theo thể thơ lục bát ân tình và cảm động. Từ một việc làm thường ngày nâng lên thành một nghi lễ thiêng liêng, một ứng xử tôn nghiêm thành kính mà vẫn rất gần gũi thân thương.
Thường các nhà thơ hay viết về mẹ, bởi mẹ là người sinh ra vỗ về từ dòng sữa ngọt ngào đến lời ru nâng niu, nhà thơ Nguyễn Duy đã viết “Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn”. Ít nhà thơ viết hay về cha. Cha là người dạy dỗ bằng tinh thần rắn rỏi và cương quyết; Cha là người chỉ hướng cho phát triển nhân cách từ sự nghiêm khắc.
Bài thơ mở đầu bằng lời thưa tôn kính: “Thưa cha, con đã dâng trà”. Trà vốn là một thú vui tao nhã, ở đó sự đậm chát được chắt chiu lọc qua phù sa đất đai, sương gió nắng mưa để thành vị đậm đà thơm ngọt. Trà cũng chính là sự cô đọng sao qua bao màu lửa để chắt lấy vị tinh túy; Trà cũng là sự giao đãi giữa con người với nhau truyền bao cảm hứng đồng điệu.
Ở đây khung cảnh “Dâng trà” của nhà thơ giữa bốn bề không gian vắng lặng trong nỗi xót xa tiếc nhớ người cha đã đi xa và rót chén trà dâng lên vong linh cha mình. Một nghi lễ tâm linh trong chiều nắng dần về hoàng hôn khi: “Chiều quê một nửa mái nhà nắng đi” của một làng quê: “Làng nghèo ngồi đếm chim ri - Con nghèo con đếm thầm thì trong mơ”. Một sự thành thật bình dị, một sự sẻ chia hồn hậu. Câu thơ như một lời tự sự, một nhấm nháp qua vị chát của trà để tạo ra hương vị đằm sâu đó là tình người, tình cha con mà rộng ra là tình cảm làng mạc. Một thầm thì như một tiếng nấc nghẹn lòng và bao kí ức hiện về như một lời tự thú, tự vấn.
Tôi cứ hình dung sau động thái, tôn kính “Dâng trà” trước chân dung người cha đã khuất thì ùa về một sự trống trải bơ vơ khiến người con đi lại trong căn nhà quen thuộc tìm lại những kí ức tuổi thơ trong đó có cả những kí ức đắng đót khi nhìn thấy cảm thấy: “Mà roi cha vẫn gác hờ mái hiên”. Chữ “hờ” mà không hững hờ đó như một ấn tượng khắc khoải về tuổi thơ với sự dạy dỗ nghiêm ngặt của người cha với những lỗi lầm ương bướng của một thời ngây dại vẫn ẩn khuất đâu đây với sự tự thú xót xa: “Con từng ba dại bảy điên - Chén trà con rót tràn niềm đắng cay” như một lời tự kiểm sâu sắc. Đó cũng là sự hối lỗi với vong linh người cha với bao “cay đắng” cuộc đời khi rời khỏi vòng tay cha mà nhà thơ nếm trải.
Thơ hay là thơ chạm đến cõi người, nỗi người là sự thành thật hết mình, trải hết lòng mình. Nhà thơ trở về “Dâng trà” cho cha chính cũng là tự soi lại mình:“Phận con nhàu trọn lòng tay - Một câu thơ bạc một ngày vô ơn”. Chỉ mấy hình ảnh “nhàu”, “bạc”, “vô ơn” như một sự tự thú lòng mình. Ở đây có cả một sự khiêm nhường, một ân hận da diết mong muốn cảm thông. “
Dâng trà” bộc lộ sự chia sẻ với cha một cách thẳng thắn và nghiêm khắc với chính mình đó chính là một phẩm hạnh rất đàn ông vừa sâu sắc quyết liệt vừa tình nghĩa mặn nồng với cha tất cả đều minh bạch bởi cha là tấm gương để con soi vào đó xóa đi những nét mờ và trả lại sáng trong lấp lánh. Có thể đây là những giây phút yếu đuối của thi sĩ vốn được tiếng là cách tân táo bạo trong thi ca và cũng khá phong độ quyết liệt trong đời sống hằng ngày càng làm cho ta xúc động. Một lời tâm sự tâm tình trước bao sự độ lượng của người cha thân yêu: “Chén trà, con có gì hơn - Mời cha rồi nuốt tủi hờn sau cha”. Bài thơ “Dâng trà” chính là tự sự, tự bạch, tự thấm, tự cảm tạo ra một trường thơ ám ảnh bởi sự chân tình lắng động thành thật hết mình.
Bài thơ có hai lần lời thưa: “Thưa cha, con đã dâng trà” của mở đầu bài thơ như mở ra một không gian mở ra từ cõi lòng thì lời thưa thứ hai như khép lại những tâm tình những day dứt của nhà thơ. Một không gian mới tràn vào vô ảnh: “Sao cha im lặng như là bóng mây”. Một cao xa vời vợi, một hướng vọng mở ra như một định hướng cao cả.
Từ “dâng trà” đến “hồn trà” và “xác trà” là nhịp của thời gian là sự chắt lọc đến tận cùng. Từ “Chén trà con rót” đến “xác trà đổ đầy lòng con” để có hương trà cũng chính là hương đời, tình người. Câu thơ cuối “Xác trà lạnh ngắt đổ đầy lòng con” gợi cho ta cảm giác trống lạnh mất mát không gì bù đắp được. Xác trà là cụ thể hồn trà là vô hình đó cũng là phép biện chứng của tâm hồn khi chính hồn trà cũng là hồn người dõi theo bước đường của nhà thơ. Hồn trà là sự thẩm thấu vị ngọt ngào thơm thảo chắt qua bao chát đắng…
![]() |
| Mây trắng trên đồi chè. Ảnh: Nguyễn Tiến Phong |








Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin