Mảnh đất lắm người nhiều ma

Hoàng Minh Tường 17:40, 28/10/2025

Sau khi “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường ra đời và đoạt giải Nhất tiểu thuyết Hội Nhà văn Việt Nam, năm 1990 (cùng với “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh và “Bến không chồng” của Dương Hướng), ông liền được ngồi vào hàng tiên chỉ của nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, đưa quê hương Thái Nguyên của ông vào bản đồ văn học nước Việt.

“Mảnh đất lắm người nhiều ma” in đậm dấu ấn của vùng đất trung du dưới chân Tam Đảo, với những địa danh xóm Giếng Chùa, núi Ông Bụt, khúc sông Vai Cày, sông Công, sông Cầu…, với những nhân vật đầy ấn tượng, như lão Quềnh, Thống Biệu, ông Hàm, ông Thủ, ông Phúc, Bà Son, cô Đào… của một thời làm ăn khốn khó.

Cố Nhà văn Nguyễn Khắc Trường và những tác phẩm văn học được Giải thưởng Nhà nước
Cố Nhà văn Nguyễn Khắc Trường và những tác phẩm văn học được Giải thưởng Nhà nước.

Thiên tiểu thuyết càng được chắp cánh, vang xa khi được dựng thành phim “Đất và người”, thành kịch, xôn xao, háo hức cả một thời. Cái tên Thao Trường, bút danh hồi mới vào nghề của anh lính Phòng không không quân, từng xuất hiện với nhiều truyện ngắn, bút ký (in trong các tập Cửa khẩu, 1972, Thác rừng, 1976, Mảnh đất mặt trời, 1982), từng đoạt giải Nhất với truyện ký “Gặp lại anh hùng Núp” của báo Văn Nghệ, 1986, dường như bị mờ đi, khi nhà tiểu thuyết Nguyễn Khắc Trường xuất hiện, khẳng định tên tuổi một nhà văn viết về nông thôn ngoại hạng.

Hồi Nguyễn Khắc Trường làm Tổng Biên tập NXB Hội Nhà văn, tôi về Ban Sáng tác Hội Nhà văn, hầu như buổi trưa tuần nào chúng tôi cũng bù khú ở phòng Trường. Vui chuyện, Trường cười vang cả nhà, thổ lộ: “Nếu không có chuyến đi thực tế ba tháng ở ba huyện Nga Sơn, Triệu Sơn, Thọ Xuân (Thanh Hóa), thì tôi không viết được ông ạ. Các nhân vật họ Trịnh, họ Vũ là nguyên mẫu xứ Thanh đấy. Còn chuyện bà Son, chuyện sinh hoạt, tập tục làng xã là ở Đồng Hỷ quê tôi. Xứ Thanh mới là đất của tiểu thuyết… Tôi không bịa được, nếu không có thực tế đời sống…”.

Thảo nào, đến tiểu thuyết “Trang trại”, một tác phẩm hứa hẹn một Nguyễn Khắc Trường khác, rất khác, trích đăng sáu mươi trang mở đầu trên Tác Phẩm Mới mấy năm sau, đang được độc giả rất ngóng đợi, liền im bặt, không viết tiếp được nữa. Tôi khuyến khích ông: Phải viết tiếp Trang trại, không thì phí quá…

Nguyễn Khắc Trường thở dài, không nói gì. Tôi chợt nghĩ đến vận động viên nhảy sào huyền thoại Sergey Bubka người Ucraina, sáu lần vô địch thế giới. Dù cố gắng bao nhiêu đi nữa, Bubka cũng không vượt khỏi mức sào 6,14 mét mà ông đã lập. Nguyễn Khắc Trường nâng mức sào lên cao quá, lại lỡ nhịp chạy đà. Ông không có thực tế về một anh nông dân vốn là tướng cướp vùng chân núi Tam Đảo muốn vươn lên thành một chủ trang trại thời kỳ đổi mới.

Nhưng có sao đâu. Chỉ một tiểu thuyết lừng danh “Mảnh đất lắm người nhiều ma”, nhà văn Nguyễn Khắc Trường đã đủ khắc tên vùng quê Thái Nguyên thân yêu của ông vào nền văn học Việt Nam hiện đại rồi.

Ấn phẩm Văn nghệ Thái Nguyên xin trân trọng giới thiệu trích đoạn Khúc sông định mệnh trong Tiểu thuyết "Mảnh đất lắm người nhiều ma". Đoạn trích miêu tả cuộc tình định mệnh của bà Son với hai tình địch Vũ Đình Phúc và Trịnh Bá Hàm của làng Giếng Chùa.

(Nhà văn Hoàng Minh Tường chọn và giới thiệu)

Minh họa: Đào Tuấn
Minh họa: Đào Tuấn

Ngày cô Son đang dậy thì, nghe dân làng rì rầm con gái mình có chuyện trăng gió, ông Cả Ngói, tức bố bà Cả, bà Son, vì ông sống bằng nghề đốt gạch ngói, khi có đứa con gái đầu thấy nó xấu xí, nên cứ gọi quấy quá là con Gái. Khi có em là cái Gái cả, chị Cả. Ông Cả Ngói đã sang tận Đáp Cầu mời thầy tướng về lập số tử vi cho Son. Cơm gà, cá gỡ đến ba ngày, vợ chồng Cả Ngói phải cố nặn óc nhớ ngày giờ sinh của Son để thầy lập bảng ứng với những sao thiên lương, thiên tướng, tuần tuần triệt triệt, đường ngang, nét dọc cứ như trận đồ bát quái. Rồi thầy chọn giờ linh vào sáng sớm, không ăn, không uống cho người thoát tục, giở sách thánh để giải mã những bí mật về cuộc đời của người con gái sắc nước hương trời vào bậc nhất làng Giếng Chùa lúc ấy. Lá số đẹp, xấu thế nào? Không biết. Chỉ biết tiễn thầy tướng đi rồi, ông Cả Ngói đăm chiêu tư lự lắm.

Chính lúc ấy ông Hoành đến dạm hỏi Son cho cậu Hàm. Vợ chồng Cả Ngói gật ngay. Ông đe Son khi thấy cô làm mình làm mẩy: "Bỏ qua dịp may này là mày chỉ có đi làm lẽ thôi con ạ!”. Rồi nghe nói ông còn bảo riêng với bà vợ là hậu vận của Son còn nổi chìm lắm, không khéo đến chết cũng nằm không yên! Không yên là thế nào? Bà hỏi, nhưng ông chỉ khoát tay một cách bí hiểm.

Ngày ấy Son không mảy may tin vào chuyện bói toán, cô còn cho là mấy người đã thông đồng lập mưu để ép cô lấy anh cả thọt kia. Còn chuyện hậu vận mãi sau này nghe mẹ nói lại, Son vẫn nghĩ đây là lời đe để chị phải sống yên ổn với anh Hàm. Hôm nay bỗng dưng những lời đoán định kia chợt sống dậy trong tâm trí bà Son. Trong lúc lòng dạ đang rối bời, đầu óc bà bỗng lấn bấn với những lời xưa nay vẫn cho là vẩn vơ không căn cứ.

Bà Son không biết bà Cả nói những gì nữa. Người bà cứ chộn rộn chuyện xưa chuyện nay chồng chéo rối rắm. Đến khi bố con ông Khừu đã ngủ lăn lóc, bà Cả ngáp ngắn ngáp dài, bà Son mới ra về. Xưa nay vẫn thế, có chuyện gì vui buồn, chị em đều gặp nhau, nhưng không bao giờ bà Son ngủ lại. Chính điều ấy làm ông Hàm rất yên tâm. Bà Cả vừa giũ chiếu vừa dặn em gái:

- Mai dì cứ ở nhà, có gì bảo cái Hoa sang gọi tôi. Đã đến lúc phải cho cái nhà ông Thủ ấy biết điều. Không hơi sức đâu phải cầm buồi cho kẻ khác đái!

Bà Son kéo bó tre gai mà ông Khừu vẫn dùng rấp cổng ban đêm, bước ra đường. Trăng đầu tháng đã lặn. Làng ngủ thiếp. Đường tối nhờ nhờ như hư như thực giống y như lòng dạ tâm trí bà Son lúc này, cứ lơ lửng như đã lạc vào chốn mê cung mê lộ nào. Người châng lâng, đầu óc cũng châng lâng, đôi chân bước thập thõm như bị đẩy bị hút về phía trước. Cứ đi, cô đơn, vô định. Thình lình một cái bóng đen thui, to phềnh phàng như một khối bóng tối từ bụi cây thừng mực nhảy ra. Bà Son vừa “ớ” lên thất kinh, chưa kịp nhận ra cái gì, thì một miếng vải mưa đã xòe ra chụp cứng lấy đầu. Rồi phắt một cái, hai chân bị hất khỏi mặt đất, cả người bà như bay bổng lên, nằm gọn trên vai không biết của người hay quỷ mà khỏe thế. Rồi như hùm vác lợn, tên bắt cóc chạy huỳnh huỵch rào rào xuống cánh đồng trũng phía bên kia đường. Bà Son đang á á ú ú trong miếng vải mưa bùng nhùng, thì bà đã bị hất người xuống một đống rạ vừa cắt, và tên bắt cóc nằm đè ngay lên. Một thứ giọng mũi vừa nói vừa nghiến răng trèo trẹo:

- Phúc đây! Phúc đây! Này thì nói điêu này! Này thì vu vạ này!

Cùng với những tiếng dằn giọng, một tay của kẻ cưỡng đoạt càng bịt chặt miếng vải mưa trên mặt bà Son, còn tay kia tốc ngược áo lên tận cổ, rồi hắn kéo đánh soạt chiếc áo con bên trong. Hai quả “phật thủ” mõm mềm, nhưng còn rất mẩy, chảy thõng, trắng nhẫy nhượi đến hoa cả mắt thằng gian. Hắn vừa véo một cái vào đấy như quạ mổ, thì bỗng một tiếng quát nhỏ, chỉ vừa đủ nghe:

- Này mày, mày!...

Thằng gian gầm một tiếng trong cổ họng, đẩy dúi bà Son một cái, rồi nhảy lên bờ vùng bỏ chạy. Nhưng kìa lạ không? Thằng gian trượt chân xuống một ổ gà, đang lảo đảo, thì người bắt được kẻ gian lại đỡ vội lấy vai hắn, rồi cả hai cùng cúi rạp lưng phóng vùn vụt như hai mũi tên bay là là trên cỏ, mất hút vào rặng cây đỗ ma mọc hoang um tùm cạnh rừng bạch đàn.

Tất nhiên bà Son không thể nhìn thấy cảnh đó. Khi bà lồm cồm kéo áo đứng được lên, thì bốn bề đã im như tờ, như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Bà gạt tấm vải mưa, xéo chân lên giận dữ, rồi hào hển nhảy lên đường, miệng vừa rên hư hư, vừa chạy như ma đuổi ma ám.

Bà Son không chạy về làng, không chạy về nhà, mà chạy thẳng ra phía đồng Chùa. Nỗi uất ức, sự chán ngán đến cực điểm vì bị làm nhục. Kẻ bị vu vạ và người được vu vạ đều hùa vào làm nhục mình, khiến bà Son không còn thiết gì, không còn sợ gì nữa. Bà cứ chạy, chạy như mê như mụ. Cánh đồng mờ mờ mịt hơi sương. Trong lòng, trong trí bà Son cũng đang mù mịt tựa khói ám. Đôi chân chạy như bị xui bị khiến. Có tiếng nước chảy ồ ồ phía trước. Bà Son hổn hển lao tới, như đấy là nơi giải thoát duy nhất đang chờ đón!

Đấy chính là chỗ Vai Cày bờ sông!

… Cuộc họp sáng nay, trưởng đoàn công tác huyện đề nghị với bí thư Xuân Tươi phải thay đổi chương trình.

……………………….

Tất cả vừa yên chỗ, Xuân Tươi đứng lên nói:

- Hôm nay ta phải làm lại các đồng chí ạ. Vội vàng như hôm qua là hỏng! Tôi xin nhận khuyết điểm! Chúng ta không được dùng một nghị quyết lớn của Đảng để sát phạt nhau! Từ giờ, việc điều hành chính sẽ là đội công tác của huyện.

Bỗng có tiếng chao chát ngoài ngõ. Mọi người vừa quay ra, thì bà Cả đùng đùng vào tới sân. Quần ống thấp ống cao, phô hai dóng chân dài và đen. Tay áo cũng bên sắn bên không. Khuôn mặt gầy của bà cứ gồ lên phừng phừng.

- Thưa các ông các bà đảng viên của cả làng! Nghe nói có cả người của huyện xuống nữa. Tôi xin hỏi rằng là dì Son em tôi nó có tội tình gì mà các ông các bà bắt dì nó ra giữa làng để vặn vẹo? Tại làm sao nó phải làm cái việc kiện tụng, các ông các bà có biết không? Thì cứ hỏi ông Thủ ngồi kia! Hỏi cậu Cao ngồi kia! Nó bỏ đi đâu từ đêm qua đến giờ? Nó mà làm sao thì tất cả không xong với tôi đâu! Cả ông Phúc kia nữa! Ông để vợ ông lỗng mồm như thế à! Rồi tôi phải gang mồm, móc họng ra cho chừa cái thói...

Xuân Tươi chạy ra ôm lấy vai bà Cả kéo vào sân, miệng rối rít:

- Bá cứ bình tĩnh, em biết cả rồi! Em hứa sẽ làm công minh.

Trưởng đoàn công tác huyện cũng chạy ra nói, bà Cả mới nguôi ngoai. Một vài đảng viên trung gian không thuộc bên nào đề nghị phải xem xét ngay việc bà Son. Chứ không thể đánh bài im được, vì nếu xảy ra chuyện gì thì chi bộ không phải là không có trách nhiệm.

Thế là tranh luận um sùm. Một thôi một hồi, thấy rối rắm quá, vì càng bàn cãi lại càng đi xa nội dung, càng không ai chịu ai. Trưởng đoàn công tác của huyện hội ý với Xuân Tươi thôi đành tạm hoãn, để chuẩn bị lại cho cuộc họp buổi chiều chu đáo hơn! Thế là cuộc ra quân lần hai lại xúi! Cả đôi bên ra về như bị bước hụt, vì đang ngứa gan ngứa miệng!

Trong khi đó bà Cả và chị em Đào cứ nháo nhác lên. Đến lúc này thì anh em ông Hàm cũng nao núng lắm rồi. Đứng ngồi không yên, lòng dạ bối rối, hơi tí là giật thót cả người.

Vẫn không ai biết bà Son ở đâu!

Ông Phúc chưa về đến nhà, đã nghe hàng xóm mách là bà Dần vợ ông và cô Cành con gái đầu bà Cả đã có chồng có con, đang cãi nhau như chợ vỡ ở ngoài Soi Dâu. Ông Phúc bỗng tức lộn cả ruột. Đúng là đàn bà chỉ tổ làm rách việc. Tối hôm qua ông đã gắt ầm lên về việc bà Dần đi chửi như khua mõ khắp làng rồi. Không cần phải hàng tôm hàng cá như vậy, vì ông đã nắm đằng chuôi con dao hai lưỡi này! Giữa lúc phải trái, thắng bại đang lựa miếng nhau như con dao hai lưỡi, thì anh nào nắm được đằng chuôi, anh ấy thắng. Trong lúc ông đang bị dồn vào thế nắm đằng lưỡi, phải ngậm bồ hòn làm ngọt, thì bỗng thế cờ lật ngược. Chính vì chú cháu Thủ Cao, Cao Thủ quá hiếu thắng, quá chủ quan đến mức coi giời bằng vung, định đánh một đòn chết tươi để kết liễu anh em chi họ Vũ Đình trước bàn dân thiên hạ, nên đã cuống lên mà mất hết tỉnh táo, thì bỗng dưng con dao quay ngược lại! Chính bà Son, bà Cả đã vô tình đẩy con dao quay ngược lưỡi! Cũng là gây oán, trả oán đấy thôi! Những lời chao chát của bà Cả vừa rồi, đẩy chính là cái chuôi dao để ông cầm mà phạt chú cháu Thủ - Cao cứ là gãy rôm rốp như phạt mía! Thế cho nên việc gì phải đanh đá cá cầy cho dân làng thêm ghét.

Ông Phúc tính phải ra ngay Soi Dâu để ghìm cái máu hổ của vợ...

……………………..

Về đến nhà thấy cửa đóng im ỉm, ông Phúc vơ lấy chiếc mũ lá cọ đi ngay. Hôm nay mẹ con bà Dần đi gặt nốt dặm ruộng ở ngoài Soi Dâu giáp sông Công. Ở vùng này tất cả những bãi bồi liền sông đều được gọi là Soi. Thuở xa xưa Soi Dâu đã trồng dâu nuôi tằm nhưng nghề ấy không thịnh ở đây. Chưa ra tới nơi, ông Phúc đã được biết vừa mới rồi, bà Dần và cô Cành sau một hồi lời qua tiếng lại, đã xông vào xé áo nhau làm loạn cả cánh đồng. Người lớn phải lao vào kéo hai người như hai con gà mái mổ nhau, còn đám trẻ con thì khoái đến tận cụ tỉ, chúng nhảy lò cò reo: “A phóng chưởng rồi! Bố tướng quá!”. Bây giờ hai bên đã lui vào thế phòng ngự. Nhưng chốc chốc lại câu pháo sang nhau.

……………………

- Thôi cô Cành ạ, có chuyện gì đã có tôi đây.

Cành quay lại, làm ra vẻ ngạc nhiên như bấy giờ mới nhìn thấy ông Phúc. Khuôn mặt gồ của cô tía lên dưới vành nón, và giọng vẫn cong cớn:

- Ông cứ hỏi cả làng trên xóm dưới xem là ai gây chuyện trước? Chiều hôm qua mà tôi ở nhà thì đừng có hòng động đến dì tôi. Sinh sự thì sự sinh.

- Thì hôm nay có gì cô cứ nói với tôi! - Ông Phúc nói nhỏ rồi đi xuống thửa ruộng nhà mình. Bà Dần vốn nể chồng nên thấy ông ra bà xếp ngay miệng lại, cứ cắm cúi gặt như mải mê lắm. Thằng Kiệm, thằng Cầu cũng nem nép xếp lúa.

Ông Phúc đang định nói một câu nghiêm nghị trách móc vợ, thì bỗng tiếng la thất thanh phía cuối cánh đồng, chỗ giáp bờ sông:

- Cô Cành! Ới cô Cành!

Cành vẫn đang lóe xóe la đứa con gái, giật mình quay lên nhìn mấy đứa trẻ chăn trâu đang cởi trần trùng trục định xuống sông tắm, nhưng bỗng chúng chạy tóe trở lại, vừa chạy vừa gọi ú ớ: “Cô Cành! Cô Cành” như một lũ động kinh.

Cành “hở, hở” rồi vứt liềm hớt hải chạy đến. Theo tay chỉ của đám trẻ trâu, cô lao xuống bờ sông. Rồi chính cô cũng chạy té trở lại. Vừa ngã dúi ngã dụi vừa khóc rầm rĩ, hai tay bò bới quáng quàng như bỗng hóa điên hóa mù:

- Ôi giời ơi! Dì tôi! Dì tôi!

Người ông Phúc bỗng giật mạnh một cái. Rồi hoàn toàn vô thức, không kịp dặn dò kìm nén, ông vứt bó lúa đang lượm chạy bổ lại.

Chỗ ấy chính là đoạn sông Vai Cày!

Có một góc của cõi lòng đã cất kỹ, đã giấu kín cho quên đi, bây giờ bỗng bị khua dậy! Ông Phúc chạy đến chỗ lùm tre là sát trên mặt nước. Quãng này sông ăn hoắm vào thành hình chữ C, nhưng người thôn quê chỉ nhìn nó giống như chiếc vai cày. Nước lừ đừ cuộn thành xoáy như vòng tròn, như dấu hỏi, càng ngày sông càng liếm thêm liếm sâu vào bờ đất. Lá cây, củi rác bị dồn lại che đặc trên mặt nước. Có tiếng óc ách như cá quẫy trong bụi rậm. Rồi một vật lập lờ trong nước, lừ đừ từ trong đám rong trôi ra theo xoáy nước. Ông Phúc kêu “á” một tiếng, hai mắt giật giật kinh hãi, nhìn hút vào cái hình dạng đã hiện ra rõ mồn một.

 - Bà Son!

Ông Phúc hoa tay, hét lớn:

- Lại đây! Lại đây!

Tất cả chạy túa lại. Cả vợ con ông Phúc cũng hớt hải đến. Nhưng không ai dám tới gần, mặt mũi cứ táo tác bợt bạt ra. Cô Cành thì vẫn nửa mê nửa tỉnh, vật vã trên đất. Ông Phúc vẫy thằng bé nhỉnh hơn cả trong đám trẻ trâu lại, rồi ông lập cập bước xuống mép nước. Ông nhoài người ra trong thế bơi đứng, khẽ nắm lấy tay áo của người tử nạn đã biến dạng, trương to như vữa ra trong quần áo. Bàn tay co quắp răn rúm. Cái miệng méo đi. Hai con mắt bạc nhợt ngâm trong nước vẫn mở trừng ra, như cũng kinh hãi về cái chết của chính mình. Mái tóc dày xổ tung, cuốn lỏa tỏa trong nước như đang run rẩy, run rẩy. Ông Phúc cúi xuống lùa một tay dưới gáy, một tay dưới lưng người đàn bà đã cho ông những ngọt ngào, đã cho ông những cay đắng, bây giờ đang dập dềnh chìm nổi trong nước. Ông thầm nói bằng cái nhìn rối bời. Tôi đây! Phúc đây! Chính ở chỗ Vai Cày này, ngày ấy bà rủ tôi bỏ nhà, bỏ làng đi lên rừng hay xuống biển cùng được, miễn là có nhau. Tôi sợ, tôi chối. Bà bảo đến nước này thì chỉ còn muốn chết! Mà muốn chết trong vòng tay của nhau! Nếu em chết trước, anh hãy cho em nằm trên tay anh một lần cuối. Và đêm đầu tiên em ở một mình dưới đất, anh hãy ra ngồi với em, dù âm dương cách trở! Tôi đã bảo đừng có nói gở. Dù có thế nào thì sống vẫn hơn chết! Thế là bà giận, bà cáu, bà làm ầm lên. Tôi phải bịt lấy miệng. Bây giờ sau mấy chục năm lỡ lời, tóc đã bạc, tới lúc tôi đưa bà đi một đoạn, đưa bằng đôi tay của tôi đây!

Bìa Tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma tái bản lần thứ 11.
Bìa Tiểu thuyết "Mảnh đất lắm người nhiều ma" tái bản lần thứ 11.

Ông Phúc cúi xuống thấp nữa. Một luồng hơi lạnh phả lên, thấm rất rõ như thổi vào từng đầu ngón tay, lùa vào từng mao mạch, nhè nhẹ tê lạnh, chạy mãi lên cườm tay. Sau bao nhiêu năm không giáp mặt, bây giờ ông lại nhìn tận mặt, chạm tận tay vào làn da của người xưa, nhưng là một làn da đã sũng nước, trơn nhẫy như cá.

Ông Phúc đứng thẳng lưng, định xóc thi thể bà Son lên bờ, thì bỗng hốt hoảng tưởng như mình nhấc một khối chì, nặng đến dúi người xuống. Ông ngoái lên định gọi thằng cu lớn nhất trong đám trẻ trâu lại giúp, nhưng thấy nó đang run rẩy tái xám trên bờ, ông lại cúi xuống, gồng sức vào hai cánh tay nhấc bật thi thể đã trương như một cái phao lên khỏi mặt nước, rồi loạng choạng lên tới gộc sim, thì hai mắt ông hoa lên, tay lạnh đến cứng đờ ra, ruột gan cuộn thốc tháo.

Thi thể bà Son vừa chạm đất, tức thì từ mũi xổ ra hai dòng máu còn chưa ngả màu, vẫn tươi đến rợn người. Cô Cành đi như lê đến, vừa run rẩy rờ rẫm như người lòa lên cái bụng trương to đến kênh hết cả áo của người dì xấu số, vừa than khóc đứt hơi đứt tiếng:

- Ối dì ơi là dì ơi! Sao dì lại chết khổ thế này dì ơi!

Một người đàn bà từ dưới đồng chạy đến, quỳ xuống lấy khăn vuông thấm máu trên mũi bà Son. Ông Phúc cầm chiếc nón của đứa con cô Cành đang khóc rũ rượi cạnh mẹ, úp lên mặt bà Son. Trong phút giây cuối cùng, ông nhìn hút vào khuôn mặt trương phù đang xám lại rất nhanh, và đôi mắt đã được người đàn bà hàng xóm vuốt xuôi xuống, nhưng không khép lại được, vẫn mở lom lom như còn đầy ai oán nuối tiếc.

Thêm nhiều người từ các đồng xa nháo nhác chạy đến. Ông Phúc bước lùi trở ra, mặt ông vẫn nhìn vào chiếc nón úp trên mặt bà Son. Thật là chiếc nón tiền định cho số phận! Ngày xưa người ta đã đặt thành ca thành vè: “Chiều tà dạo mát bờ sông, thấy cái nón trắng mà không thấy người...”. Ấy là cái nón quết quang dầu bóng nhoáng như thoa mỡ của cậu giáo Phúc mua tặng cô Son đấy! Chiếc nón ấy đã đưa cô Son vào tuổi rực rỡ của người con gái. Còn bây giờ chiếc nón này đưa bà Son từ giã cõi đời!

Ông Phúc vẫn bước giật lùi. Nước từ chiếc quần ướt trên người ông rỏ xuống ròng ròng. Chợt linh tính báo cho ông có một cái nhìn bỏng rát phía sau gáy. Vũ Đình Phúc vừa quay lại thì đã thấy sừng sững trước mặt Trịnh Bá Hàm đang thở hồng hộc. Cái lưng gù gù, hai tay nắm lại, đôi mắt cá rói đỏ đến tối sẫm. Sự điên khùng nhất của Trịnh Bá Hàm lúc này chưa phải là cái chết của người vợ đẹp, mà Hàm thấy hóa ra bao giờ mình cũng là người đến chậm! Vũ Đình Phúc luôn luôn đến trước, luôn hưởng trước ta! Cả đến cái chết của Son, Phúc cũng chứng kiến trước ta!

Lúc nãy Trịnh Bá Hàm vừa rót rượu ra, thì nghe có tiếng gọi lạc giọng: “Bác Hàm! Giời đất ơi bác Hàm! Bà Son chết ở ngoài sông rồi! Chỗ Vai Cày ấy! Ông Phúc và mấy người làm đồng vừa vớt bà từ dưới sông lên!”. Chén rượu trên tay rơi đánh choang. Hàm chạy lồng đi như một con thú bị thương. Đầu óc bừng cháy trong nỗi thèm khát đập phá, thèm khát trả thù!

- Mày! Mày... Ai thèm cái mặt mày ở đây?

Phúc vừa quay lại, thì Hàm gầm lên, rồi vung tay lao người vào Phúc. Nhưng sự hấp hoảng bao giờ cũng hỏng việc. Nhanh như cắt, Phúc né người sang bên gạt khẽ chân, khiến Hàm mất đà ngã chúi về phía trước. Nhưng ông trưởng họ Trịnh Bá đã vùng ngay dậy và nhìn thấy chiếc đòn gánh của bà hàng xóm phía trước. Hàm nhảy bổ đến vồ lấy chiếc đòn, rồi hung hãn quay lồng lại Phúc. Mấy người đàn bà la thất thanh. Nhưng thình lình như từ dưới đất mọc lên, một mũi súng săn đen ngòm đã chĩa thẳng vào ông Hàm! Và Tính, người em rể của Phúc, ông quản đốc nghỉ hưu suốt ngày đi săn chim săn cò, đã kịp thời lao bổ đến. Tính cũng hét lên với giọng ăn tươi nuốt sống đối thủ vì ông em rể này rất ham chuyện đấu đá:

- Dừng lại! Tiến một bước nữa tôi bắn vỡ sọ!

Nhà văn Nguyễn Khắc Trường có bút danh khác là Thao Trường, sinh năm 1944 tại xã Bình Sơn, huyện Đồng Hỷ, Thái Nguyên (nay là xã Tân Cương). Năm 1965, ông nhập ngũ, phục vụ trong Quân chủng Phòng không - Không quân.

Năm 1979, ông học khóa I, Trường Viết văn Nguyễn Du. Sau tốt nghiệp, ông làm biên tập viên văn xuôi tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội.

Đến năm 1993, ông công tác tại Tổ Văn xuôi của Báo Văn nghệ rồi làm Phó Tổng biên tập.

Năm 2003, ông làm Phó Giám đốc, Tổng Biên tập Nhà xuất bản Hội Nhà văn đến khi nghỉ hưu năm 2009, sau đó làm Chủ tịch Hội đồng Văn xuôi của Hội Nhà văn Việt Nam.

Ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học, nghệ thuật năm 2007.

Ông mất năm 2024.