Phục Linh quê hương tôi

Đào Thị Thức 17:53, 21/10/2025

Tôi sinh ra trong sự hòa quyện giữa hai nền văn hóa: cha tôi là người Kinh, từ miền xuôi lên lập nghiệp trên vùng đất mới Phục Linh, mẹ tôi là người dân tộc Cao Lan bản địa. Cuộc hôn nhân ấy trở thành khởi nguồn cho mối gắn bó mật thiết của gia đình tôi với vùng chè Thái Nguyên, để rồi mãi tới mai sau, mảnh đất này đã trở thành nơi chôn rau, cắt rốn, sinh cơ lập nghiệp ông bà, bố mẹ, anh chị em tôi.

 Thu hoạch chè tại Hợp tác xã chè Nhật Thức, xã Phục Linh.

Thời đó, người Cao Lan sinh sống trên mảnh đất Phục Linh, huyện Đại Từ (cũ), chưa coi chè là cây kinh tế. Chè mọc hoang hóa trên rừng, bà con chỉ hái búp non, kẹp vào que tre, nướng trên than hồng rồi bỏ vào ấm đất để nấu. Tối tối, nhất là vào mùa đông giá rét, các gia đình trong thôn xóm thường ngồi quây quần quanh bếp lửa uống chè và trò chuyện thâu đêm. Trà là thứ nước uống giản đơn, là sự gắn kết gia đình, làng mạc, chứ không ai nghĩ đến chuyện trồng để bán hay làm kế sinh nhai.

Vào năm 1975, cha tôi, một thanh niên cần cù, chịu khó, ham hiểu biết, đã cùng bà con lên rừng hái quả chè về nhân giống, trồng khắp những vùng đồi đất đỏ bazan. Tôi nghe người lớn kể lại, ngày ấy trồng chè rất đơn sơ theo lối truyền thống. Mỗi người cầm một cái gậy đẽo nhọn một đầu, dùng để chọc xuống đất đồi, thả hạt chè xuống. Rồi trông trời, trông đất trông mây, chờ đợi hạt nảy thành những cây chè non.

Năm tháng qua đi. Chẳng mấy chốc, đất Phục Linh quê tôi đã bát ngát những đồi chè. Từng gốc chè, nương chè cứ mỗi ngày một lớn lên, rộng thêm trong nắng gió và những giọt mồ hôi mặn chát của người dân quê tôi. Nghề chè từ đấy đã dần dần được hình thành. Những bếp lửa, những lò sản xuất chè qua mỗi tháng năm bập bùng trong mỗi gia đình. Quê tôi, ngoài mùi hương lúa, mùi thơm rơm rạ, hương hoa rừng còn thoang thoảng hương chè. Nhưng đất Phục Linh quê tôi rất xa các khu trung tâm, xa thành phố, người dân còn nặng tâm lý tiểu nông, không có điều kiện tiếp xúc, giao lưu với bên ngoài nên nhiều gia đình làm ra chè nhưng không biết cách tiêu thụ. Bà ngoại tôi tuy là người dân tộc thiểu số nhưng vô cùng nhạy bén, đã biết gom chè, tìm ra cách bảo quản chè để mang ra chợ phiên bán cho khách hàng trong huyện, trong tỉnh. Có lẽ "thương hiệu" chè Phục Linh quê tôi đã được hình thành và bắt đầu có tiếng từ ngày ấy. 

Anh chị em tôi có được cuộc sống no ấm và học hành đầy đủ chính từ những mớ chè mộc mạc, nghĩa tình của bà, của cha mẹ tôi.

Khi tôi lớn lên, Phục Linh đã bát ngát những nương chè. Màu chè xanh mướt, hương chè đã thấm đẫm tâm hồn tôi và vui nhất là cứ chiều chiều, theo sự chỉ dẫn của bà, tôi đến từng gia đình trong thôn, xã thu gom từng mớ chè trợ giúp bà trong việc buôn bán.

Về sau, mẹ tôi học từ bà và tiếp tục phát triển nghề chè cùng chồng con.

Tôi lớn lên giữa những luống chè xanh mướt, chứng kiến từng giai đoạn chè chuyển mình từ thức uống đơn sơ thành sản phẩm mang lại giá trị kinh tế.

Khi lập gia đình, tôi lại càng chí thiết với nghề chè hơn. Ngày đêm chìm trong bận rộn, nào thu mua chè tươi, chế biến chè khô, giao dịch với tư thương... Những năm tháng này, nghề chè trong cả tỉnh đã bắt đầu ứng dụng các thiết bị như tôn quay, máy vò… Nghề làm chè, những ai đã kinh qua đều biết đó là một nghề vô cùng vất vả, mồ hôi lưng áo không bao giờ khô. Với tôi, nỗi vất vả nhọc nhằn còn tăng thêm gấp bội. Con nhỏ, mệt mỏi, ốm đau… nay thiếu tiền, mai thiếu thuốc, đấy là chưa kể những lúc mang chè ra chợ, tư thương ép giá, đứng ôm bao chè tới trưa, nước mắt lưng tròng. Có những lúc tôi đã muốn bỏ cuộc.

Từ bé, tôi đã chứng kiến bố tôi và bà con trong xóm, xã phun hàng trăm bình thuốc mỗi mùa chè. Những loại thuốc giờ đây đã bị cấm. Mỗi khi phun thuốc, quần áo bố tôi ướt đẫm. Thân thể bố mỗi ngày một còm cõi. Trong xóm nhiều người đã mắc trọng bệnh. Đất quê tôi màu mỡ tốt tươi, chè quê tôi mơn mởn, vượt hẳn so với nhiều vùng quê khác. Nhưng một câu hỏi cứ day trở mãi trong lòng tôi: "Nếu cứ tiếp tục làm nghề theo lối cũ lạc hậu như thế này thì liệu nghề chè có còn là niềm tự hào của quê hương?".  Câu hỏi ấy làm tôi nhiều đêm mất ngủ, nhưng chưa có lối thoát.

Thật may mắn, bước sang thập kỷ thứ 2 của thế kỷ XXI, cả tỉnh có phong trào vận động trồng và chế biến chè theo hướng hữu cơ, loại bỏ việc phun các loại thuốc có hại. Sau nhiều đêm suy tính, tôi quyết định bước sang một hướng đi khác. Tôi bàn bạc kỹ lưỡng với các gia đình trong xã và ngày 21 tháng 7 năm 2017 chính thức thành lập Hợp tác xã chè Nhật Thức, quy tụ những người cùng tâm huyết. Ban đầu chỉ có 7 hộ, rồi tăng lên 22 hộ. Tôi tổ chức các buổi họp, chia sẻ kiến thức, cùng bà con tiến hành làm chè sạch, chè hữu cơ. Tôi là người đi ra từ đồng ruộng, mười mấy tuổi bàn tay đã xỉn nhựa chè, đã bươn chải, lăn lộn với các chợ chè nên được bà con tin tưởng. Tuy nhiên, để chuyển đổi một hướng đi, một phương thức sản xuất thật không đơn giản. Biết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt đổ xuống, biết bao nhiêu giành giật, đấu tranh… mới có thể thu được chút ít kết quả. Bởi vậy, khi HTX đạt được chứng nhận hữu cơ đầu tiên, tôi đã khóc trong buổi tổng kết. Tôi biết ơn từng người đã đồng hành cùng tôi qua chặng đường gian truân ấy.

Năm 2025, cuộc đời tôi đã có một dấu mốc quan trọng: được công nhận là Nghệ nhân sản xuất - chế biến trà. Đó không chỉ là niềm vinh hạnh của cá nhân mà còn là niềm vui chung của toàn HTX. Và điều quan trọng hơn là tôi, một đứa trẻ sinh ra và lớn lên từ mảnh đất Phục Linh yêu dấu, qua bao gian khổ nhọc nhằn đã vượt lên và trưởng thành, đã góp một phần nhỏ bé cho quê hương.

Với truyền thống của gia đình, giờ đây, con trai tôi, học sinh lớp 12, đã yêu trà từ nhỏ, thích ngồi nghe những câu chuyện về trà, đã nhiều lần từng tự tin giới thiệu trà với khách trong nước, quốc tế. Còn con gái tôi năm nay 6 tuổi đã tập rót trà từ lúc mới lên 2, nay đã biết cùng tôi đóng trà, rót trà, đã như một “trà nương thực thụ”. Tôi thường nghĩ, trên hành trình trà của gia đình tôi, chắc chắn "các bạn" ấy sẽ bước sang một con đường mới, tiến xa hơn thế hệ cha ông…

Nhưng rồi mai ngày, dù có đi đến chân trời góc biển thì tôi vẫn luôn tâm niệm rằng, mảnh đất Phục Linh nhỏ bé và yêu dấu của tôi vẫn mãi mãi là nơi cội nguồn, là nơi đã để lại cho tâm hồn tôi cùng các thế hệ mai sau bao nỗi nhớ thương và lòng tri ân sâu sắc.