Đêm giữa đại ngàn Tam Đảo, trên độ cao 1.300m, gió rừng lùa qua tán lá, hòa cùng tiếng thú hoang vọng lại, như một bản nhạc của đất trời. Trong không gian ấy, tôi như nghe được tiếng thì thầm của những gốc chè trăm năm đang kể lại ký ức về vùng đất trà Thái Nguyên huyền thoại.
Đêm trắng giữa đại ngàn
Đó là một đêm trắng trên đỉnh dãy Tam Đảo sau khi chúng tôi trải qua 8 tiếng đồng hồ leo ngược núi. Quanh chúng tôi là những thân chè cổ sừng sững như chứng tích thời gian. Đêm ấy, trong bóng tối đặc sánh, tôi tin rằng những cây chè cổ đã trò chuyện với chúng tôi- những người nỗ lực đi tìm, góp sức gìn giữ một phần linh hồn của vùng đất Thái Nguyên. Cây có lẽ cũng hiểu những ý nguyện của những người muốn bảo vệ cây, giữ lấy nguồn cội.
![]() |
| Đoàn vượt núi Tam Đảo khảo sát cây chè cổ. |
Chợt ngẫm lại, tìm cây với chè cổ với tôi như sự thôi thúc của một sức mạnh vô hình trong tâm khản. Chỉ một lần tình cờ nghe thấy trên non cao Tam Đảo thuộc đất La Bằng có nhiều cây chè cổ là tôi như bị cuốn hút đến say mê. Để rồi dù hiểm nguy, gian khó thể nào, tôi cũng quyêt tâm tìm đến bằng mọi giá.
Cuộc ngược ngàn ấy vào tháng 3/2025. Suốt tám tiếng đồng hồ, chúng tôi băng rừng, vượt suối, nhằm thẳng đỉnh đại ngàn Tam Đảo mà đến. Đường đi có những dốc đá dựng đứng nối nhau, có đoạn lối bước chỉ vừa một bàn chân, một bên là vách núi, một bên vực sâu hun hút. Đang bước phăm phăm giữa lưng chừng núi, tôi phát hiện máu rịn đẫm ống quần - vắt xanh đã kịp để lại “dấu ấn” từ lúc nào không hay, đoàn phải dừng lại và tôi mất hơn nửa tiếng mới cầm được máu.
Dẫu vậy, chẳng gì cản bước được chúng tôi đến với cây chè cổ. Những bước chân lại phăm phăm đạp đá, bàn tay bám chặt cây rừng, treo người vượt dốc đứng. Đến chiều tà, giữa lớp mây bạc, những thân chè sừng sững, chu vi gốc có cây đến cả mét rưỡi, cao 20-30m, tuổi đời vài trăm năm đã hiện ra. Chúng tôi mừng đến chảy nước mắt, reo vang khắp núi.
Đoàn đi đợt ấy có PGS.TS Hà Duy Trường, nhà khoa học thuộc Đại học Nông lâm Thái Nguyên. PGS Trường khảo sát cây chè cổ, miệng nếm lá, tay sờ, đem dụng cụ ra kiểm tra cây rồi trầm trồ: Đi nhiều nơi, trải nghiệm nhiều loại trà, biết nhiều giống chè cổ nhưng chưa từng gặp loại chè cổ nào đặc biệt như vậy.
Hành trình đi tìm chè cổ
Ở Thái Nguyên có nhiều người mê trà nhưng nói đến độ tinh và am hiểu sâu sắc về trà thì ai cũng nghĩ đến Nghệ nhân trà Mông Đông Vũ. Ông nguyên là Giám đốc Trung tâm Văn hóa - Nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên, là người gần như dành trọn cuộc đời mình cho trà. Ông sinh năm 1950. Từ thời trẻ, ông đã đi nhiều nơi trên thế giới và khắp Việt Nam để nghiên cứu về trà và cây chè. Ông cũng xác lập kỷ lục Việt Nam “người sưu tập ấm trà nhiều nhất”…
![]() |
| PGS. TS Hà Duy Trường bên 1 gốc chè cổ trên đỉnh núi Tam Đảo. |
Tôi mang câu chuyện ngược núi Tam Đảo kể với Nghệ nhân trà Mông Đông Vũ và mời ông xem lá, nếm thử chè cổ. Nhấp một ngụm, ông như phiêu về một thế giới khác, rồi quả quyết: “Cái vị chè ở đây ngọt hậu, nước xanh trong. Nó là giống chè Nam xưa, giống chè đã được ghi trong Đại Nam Nhất Thống Chí”.
Ông cho tôi xem những dòng ghi chép: “Chè Nam sản ở các huyện Phú Lương, Động Hỉ (nay là Đồng Hỷ), Đại Từ, Phổ Yên, vị ngon hơn chè các nơi khác". Đó là minh chứng từ hàng trăm năm trước, chè Thái Nguyên đã được chính sử ghi danh. Nghệ nhân Mông Đông Vũ chậm rãi nói: “Nếu không ngon, không đặc biệt, làm sao mà được ghi trong chính sử? Chè Thái Nguyên có thể đã nổi danh từ đầu thế kỷ XVIII rồi”.
Nghệ nhân trà Mông Đông Vũ kể, ở Thái Nguyên còn nhiều chè cổ, nhất là ở sườn Đông Tam Đảo. Vậy là không lâu sau, chúng tôi tìm đến ngôi chùa cổ hơn ba trăm năm tuổi Thiên Tây Trúc ở xã Quân Chu thuộc sườn Đông dãy Tam Đảo. Trong khuôn viên chùa, những gốc chè cổ thụ vẫn xanh lá, tán rợp bóng hiên chùa.
Chị Bàn Thị Hạnh, người phụ trách hương khói chùa Thiên Tây Trúc kể: “Người làng bảo chè này có từ thuở dựng chùa. Xưa kia, các cụ hái lá chè pha nước lễ Phật. Trước đây có cây to đến mức người ôm không xuể, giờ không còn mà chỉ có vài gốc chu vi thân chưa tới 1m thôi”.
Cách chùa Thiên Tây Trúc không xa, quanh chùa Hàm Long thuộc xã Quân Chu cũng còn những cây chè lâu năm. Ông Đỗ Văn An, 81 tuổi, thủ nhang chùa Hàm Long kể: Từ thuở nhỏ tôi đã thấy những gốc chè, lá thường được hái pha uống vào mùng một, ngày rằm, lễ Tết. Vì vậy cây không vươn cao, nhưng tuổi đời chắc cũng hàng trăm năm, gắn bó sâu đậm với chùa và dân làng.
Tôi đứng giữa sân chùa, nhìn những tán chè vươn cao lên trời mà lòng chợt dấy lên cảm giác linh thiêng. Có lẽ trong từng lá, từng giọt sương đọng trên cành ấy, là bao đời người đã đi qua, bao nếp sống, bao câu chuyện được gửi gắm.
Nương chè của người xưa
Chè cổ cứ mãi kể câu chuyện nhân gian, thôi thúc chúng tôi tìm ra “vùng chè mới”. Sáng sớm một ngày cuối tháng 8/2025, khi sương còn đặc quánh như khói, đoàn khảo sát lại bắt đầu cuộc hành trình ngược núi Tam Đảo thuộc địa phận xã La Bằng. Nhưng lần này khác, không ngược lên đỉnh núi mà xuôi theo dòng nước. Con đường mòn chỉ đủ một người đi, lẩn khuất giữa cây rừng, mỗi bước chân như chạm vào hơi thở ngàn năm của đất. Gió từ khe núi thổi lên mang theo hương ngai ngái của lá mục, của rừng già, của những điều rất xưa mà người nay chỉ còn nghe kể.
Đoàn hôm ấy có ông Đỗ Văn Nguyên, Bí thư Đảng ủy; ông Dương Văn Vượng, Phó Chủ tịch UBND xã La Bằng, PGS.TS Hà Duy Trường và nghệ nhân trà Nguyễn Thị Hải. Hơn một giờ leo dốc, đoàn dừng lại giữa khoảng rừng già, nơi ánh nắng sớm xuyên qua tầng lá, soi lên những thân cây xù xì, rễ nổi như những con rồng đất.
![]() |
| Khảo sát cây chè cổ thụ tại chùa Thiên Tây Trúc, xã Quân Chu. |
“Chè đây rồi!” - tiếng nghệ nhân trà Nguyễn Thị Hải vang lên đầy xúc động. Nơi lưng chừng núi Tam Đảo là cả một quần thể vài chục cây chè chu vi thân hơn nửa mét, cao hơn chục mét, vỏ rêu phong, lá xanh thẫm. Cây chè mang một vẻ đẹp hoang sơ, cổ kính đẹp đến kỳ lạ.
PGS.TS Hà Duy Trường nhẹ nhàng sờ lên lớp vỏ sần sùi của cây, xem, nếm lá, kiểm ra rồi nói: “Chè này rất giống chè trung du Thái Nguyên. Nhiều cây vài chục đến hàng trăm năm tuổi”.
Đứng giữa rừng chè với vẻ mặt hạnh phúc, Bí thư Đảng ủy xã La Bằng, Đỗ Văn Nguyên bảo: Đây là món quà vô giá của La Bằng. Xã sẽ bảo tồn, phát triển, phát huy giá trị các quần thể chè cổ gắn với du lịch sinh thái của địa phương.
Từ gốc chè xưa đến tầm cao mới
Cây chè cổ - chứng nhân lịch sử sừng sững giữa núi rừng đã khẳng định sự tồn tại lâu đời của cây chè tại Thái Nguyên. Trong Văn minh trà Việt, tác giả Trịnh Quang Dũng khẳng định Việt Nam là “cái nôi” của cây chè thế giới. Trong bức tranh chung ấy, cây chè và văn hóa trà Thái Nguyên mang một lịch sử lâu đời và đậm dấu ấn. Theo biên niên sử trà Việt, từ trước Công nguyên, Thần Nông và Viêm Đế (thủy tổ của dân Bách Việt và tộc Lạc Việt) được xem là những người đầu tiên phát hiện và đưa trà vào đời sống nhân loại.
Tư liệu cổ cũng nhiều lần nhắc đến chè Thái Nguyên. Trong Vân đài loại ngữ (Lê Quý Đôn, viết bằng chữ Hán, 1773), có ghi: “Xứ Thái Nguyên có vàng, bạc, đồng, thiếc, chì, sắt, tre, gỗ, củi, than, công tư dùng đủ; còn có chè, sơn, vỏ gió, dâu gai và tôm các, mối lợi dồi dào”.
Những ghi chép lịch sử được củng cố bằng thực tế khảo cứu. Nhiều quần thể cây chè cổ đã được phát hiện trên địa bàn Thái Nguyên. Từ đầu thế kỷ XX, Ph. Ebevharart (Pháp) ghi nhận cây chè dại mọc trong rừng Tam Đảo, ở độ cao khoảng 900m so với mực nước biển. Những cây này cao từ 8-10m, đường kính thân khoảng 40cm, mọc xen lẫn với rừng tre nứa, chứng minh sự hiện diện lâu đời và sức sống bền bỉ của cây chè trên vùng đất Thái Nguyên.
Chè Thái Nguyên đã ghi danh sử sách. Lịch sử chứng minh cây chè đã xuất hiện ở Thái Nguyên từ rất lâu, có khả năng tồn tại và phát triển trước cả thời điểm ông Đội Năm mang giống chè từ Phú Thọ về, mở ra cơ sở khoa học quan trọng để nghiên cứu nguồn gốc, quá trình lan tỏa và truyền thống phát triển của chè Thái Nguyên.
Trong bối cảnh hội nhập, việc bảo tồn những cây chè cổ không chỉ giúp củng cố thương hiệu chè Thái Nguyên mà còn tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững. Tinh thần này được cụ thể hóa trong Nghị quyết số 11-NQ/TU ngày 3/2/2025 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển ngành chè giai đoạn 2025-2030, mở ra định hướng gắn kết giữa bảo tồn và phát triển.
Ngay từ năm 2024, đề tài khoa học “Nghiên cứu, bảo tồn và phát triển nguồn gen cây chè cổ thụ núi Bóng” do Trung tâm Đào tạo, nghiên cứu giống cây trồng và vật nuôi (Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên) đã được triển khai. Đoàn nghiên cứu đã sử dụng các phương pháp khoa học hiện đại như phân tích ADN, khoan để xác định tuổi cây, đồng thời đối chiếu đặc điểm sinh học với các giống chè cổ ở Hà Giang (nay là tỉnh Tuyên Quang), Yên Bái (nay là tỉnh Lào Cai) và các giống chè trung du truyền thống của Thái Nguyên.
PGS.TS Hà Duy Trường, Giám đốc Trung tâm Đào tạo, nghiên cứu giống cây trồng và vật nuôi (Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên) cho biết: Nghiên cứu đang tiến triển tích cực. Kết quả phân tích gen sẽ giúp phân loại chính xác nguồn gốc, xác định mối quan hệ giữa chè cổ và chè trung du, từ đó xây dựng chiến lược nhân giống dài hạn. Hiện công tác bảo tồn thực hiện theo hai hướng là bảo tồn tại chỗ, giữ cây ngay tại vùng nguyên sinh và bảo tồn chuyển chỗ, tức là tuyển chọn cây tốt nhất để nhân giống, mở rộng diện tích trồng.
Những gốc chè cổ không chỉ là chứng nhân của lịch sử và văn hóa, mà còn ẩn chứa tiềm năng phát triển to lớn cho nông nghiệp sinh thái và du lịch trải nghiệm. Búp chè cổ, khi được hái lựa và chế biến đúng cách, có thể cho ra dòng trà thượng hạng với hương vị tinh khiết, khác biệt hoàn toàn so với các giống chè đương thời.
Cây chè cổ, với lớp vỏ rêu phong, vẫn lặng lẽ vươn lên trong sương núi. Chúng như biểu tượng của sức sống, của sự trường tồn. Từ những gốc chè xưa, Thái Nguyên đang mở ra tầm cao mới, vừa gìn giữ di sản, vừa phát triển kinh tế, vừa nuôi dưỡng niềm tự hào quê hương.
Với chúng tôi- những người làm báo, hành trình leo rừng, đi tìm dấu tích cây chè cổ là một chuyến đi tìm lại mạch nguồn, để mai này, khi ai đó nâng chén trà Thái Nguyên lên, không chỉ thấy hương vị, mà còn như nghe được những gốc chè trăm năm đang kể lại câu chuyện về nguồn cội trên vùng đất "Đệ nhất danh trà".










Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin