Nhà văn Hồ Thủy Giang là một tên tuổi sáng giá trong văn xuôi hiện đại Thái Nguyên.Với khoảng 40 tác phẩm đã xuất bản (tập truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim đã được xây dựng thành tác phẩm điện ảnh), đoạt khoảng 20 giải thưởng từ các báo, tạp chí và các tổ chức văn học ở trung ương. Người và văn chương của ông là một - giản dị, sâu sắc, nhân hậu...
Bởi thế, trong tài liệu Giáo dục địa phương Thái Nguyên, truyện ngắn của ông luôn được chọn để giảng dạy và học tập trong nhà trường. Với cấp THCS, đó là truyện ngắn “Cây trứng gà bất tử”, với cấp THPT là truyện “Trong vắt như gương”, những truyện ngắn với văn phong đẹp, tình huống truyện giản dị mà hấp dẫn, nhân vật gần gũi với trẻ thơ đã gieo mầm Chân - Thiện - Mỹ vào tâm hồn các em. Giáo dục qua/bằng văn chương là con đường đẹp và hiệu quả nhất, đặc biệt với thế hệ trẻ trong nhà trường .
Truyện ngắn “Trong vắt như gương” là một ví dụ điển hình cho điều đó. Tác phẩm có cốt truyện đơn giản, nhân vật ít (chỉ có hai nhân vật cụ Huê và Tôi - người kể chuyện), không có tình tiết li kì, sự kiện gay cấn... Vậy thì vì sao tác phẩm vẫn lay động sâu thẳm, ám gợi không thôi với bao thế hệ người đọc? Bởi từ một tình huống truyện đặc sắc, một chi tiết nghệ thuật đắt giá, nhà văn đã chạm tới cõi sâu thẳm cùng những tình cảm đẹp đẽ trong người đọc.
Cụ Huê đã 105 tuổi và ngày càng gầy yếu. Nhân vật Tôi là cô gái ngoài 20 tuổi thương yêu gần gũi cụ. Vì thương yêu mà hỏi: Nếu có một điều ước cho bản thân, cụ sẽ ước điều gì ạ? Tình huống truyện bắt đầu từ đây với sự tò mò, hồi hộp cho bạn đọc, với bao giả thiết: Cụ ước sống lâu hơn hoặc được “đi” sớm cho nhẹ nhõm? Một món ăn yêu thích? Một tấm áo cụ thích mà rách từ lâu nay muốn có? Một bến đò, ngày hội, người bạn cũ muốn gặp lại một lần cuối?... Nhưng câu trả lời của cụ Huê làm cho nhân vật Tôi cùng bạn đọc giật mình, kịch tính của tác phẩm được hình thành từ đây: Cụ ước có một chiếc gương!
Lạ lùng đến kì dị. Hay là cụ bị lẫn do tuổi già? Khi nghe cụ Huê giải thích, sự ngạc nhiên cùng nước mắt thương cảm oà vỡ: Vì cả đời cụ chỉ được soi gương có một lần vào năm 16 tuổi, khi chuẩn bị về làm dâu nhà người, khi đó cụ bảo mình “kháu khỉnh” lắm, rồi chồng mất, song thân dạy con gái có chồng mà còn soi gương là lẳng lơ?! Chao ôi. Thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ bị trói buộc, tước đoạt bao điều, trong đó có cả quyền làm đẹp vốn như một lẽ tự nhiên của Phái Đẹp. Nếu chỉ có vậy, truyện ngắn này không thể được đánh giá cao đến thế. Kịch tính được đẩy lên cao một lần nữa. Sự tò mò làm chúng ta hồi hộp: Nếu có gương, soi xong thì cụ Huê sẽ có tâm trạng như thế nào? Sẽ thất vọng vô cùng khi nhìn thấy gương mặt già nua, nhăn như quả trám khô của mình?! Nhân vật Tôi cùng bạn đọc đều lo lắng thế?!
Không. Một chi tiết nghệ thuật giản dị mà đắt giá xuất hiện làm tất cả oà lên trong ngạc nhiên, thương cảm, vui mừng cho cụ và cho chính mình. Một ảo ảnh bung toả cho giấc mơ thầm kín bị dồn nén gần trăm năm: Mơ được nhìn thấy mình trẻ trung, xinh đẹp của ngày xưa ấy. Cái ngày xưa hồn nhiên chưa từng nếm trải nỗi cô đơn dằng dặc, không chồng không con gần trăm năm này. Cụ vui mừng, nhắc lại thấy mình “kháu khỉnh” của thuở nào với bao rạng rỡ. Chúng ta cười cùng cụ mà nước mắt rưng rưng.
Những câu hỏi, những giả thiết của bạn đọc được giải đáp. Kịch tính kết thúc nhường chỗ cho Khúc Vĩ thanh - một bài ca tuyệt đẹp về lòng nhân ái xuất hiện, với hai chi tiết nghệ thuật tưởng nhỏ bé mà ám gợi - như hai thanh âm ngân dài cho đoạn kết của bài ca nghĩa tình kia: “Sáng hôm sau, một buổi sớm bầu trời trong vắt như một chiếc gương khổng lồ, cụ Huê nhẹ nhàng giã biệt cõi đời...”, và chi tiết nhân vật Tôi lén bỏ chiếc gương vào quan tài của cụ Huê. Ý nghĩa của hai chi tiết nghệ thuật ấy là gì? Mời bạn đọc cùng suy nghĩ và trả lời?!
Viết về những sự kiện kì vĩ bằng bút pháp huyền ảo - kinh dị đã khó. Viết về những chuyện mộc mạc, giản dị bằng bút pháp hiện thực mà hay, mà làm thương nhớ không nguôi còn khó hơn nhiều. Với truyện ngắn này, Hồ Thủy Giang đã làm được điều đó.
Với riêng tôi, khi đọc đến chữ cuối cùng của "Trong vắt như gương", đã cầm gương lên soi tóc bạc trắng của mình mà tự hỏi: Nếu không biết yêu thương, cảm thông, sẻ chia với buồn vui của người khác thì đã là một con người đúng nghĩa của khái niệm này chưa? Nếu văn chương, dù viết bằng bút pháp nghệ thuật nào, đủ sức gieo trồng những hạt thiện lành, hướng người đọc tới “bầu trời trong vắt” của lòng nhân ái, sự tử tế... thì sẽ sống lâu dài, không thể bị lãng quên?!
Ấn phẩm Văn nghệ Thái Nguyên xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
(PGS.TS, Nhà giáo Ưu tú Nguyễn Đức Hạnh chọn và giới thiệu)
Trong vắt như gương
Đầu năm nay, cụ Huê đã bước sang tuổi một trăm linh năm. Tính trong vòng một thế kỉ trở lại đây thì cụ là người có tuổi thọ cao nhất cái làng May này.
Cụ thân sinh ra cụ Huê là một đồ Nho, luôn lấy tam cương, ngũ thường, tam tòng tứ đức làm kim chỉ nam cho gia phong. Mười sáu tuổi, song thân cho cụ Huê về nhà chồng. Thật không may, vài tháng sau, cụ ông mất do mắc một căn bệnh hiểm nghèo. Cụ Huê ở vậy cho đến tận bây giờ. Cụ không có con nên khi về già sống cùng một người cháu ruột năm nay cũng đã bảy mươi. Nhà người cháu ruột rất nghèo nên đời sống của cụ Huê không được một ngày sung sướng.
Trong dòng tộc, tôi chỉ là người họ hàng xa, gọi cụ Huê bằng cụ. Nhưng vì quý cụ nên mỗi lần từ thành phố về quê, tôi luôn lui tới thăm hỏi, khi mua cho cụ đồng quà tấm bánh, khi tấm khăn lụa để động viên tuổi già. Vì vậy tôi được cụ Huê coi như một người ruột thịt gần gũi trong gia đình.
Tuy tuổi cao nhưng được cái không có bệnh tật gì nặng nên hằng ngày cụ Huê vẫn chống gậy đi lại trong nhà, ngoài sân và tự phục vụ những việc cần thiết cho bản thân chứ chưa đến mức phải phiền hà nhiều đến hai vợ chồng ông cháu ruột.
![]() |
| Minh họa: Trần Ngọc Kiên |
Có thể nói, cuộc đời cụ Huê là sự nối tiếp những trang thầm lặng. Từ bé đến giờ, nghĩa là trên dưới một thế kỉ, cụ chưa hề đặt chân đến bất kể một vùng đất nào khác ngoài cái làng May heo hút cách xa thành phố tới cả trăm cây số đường đất này.
Bước sang thế kỉ hai mươi mốt, khi làng May bắt đầu có điện lưới, ánh sáng văn minh dần dần hiện diện với những tiện nghi gia đình như ra-đi-ô, quạt máy, ti vi... thì với cụ Huê mọi thứ đã chỉ như những cái bóng mơ hồ, xa xỉ. Đêm đêm, cụ vẫn bảo người nhà thắp cho cụ ngọn đèn thông phong đỏ dịu chứ không ưa cái ánh sáng chói mắt hắt ra từ bóng đèn nê-ông rực rỡ. Cụ vẫn thích ra ngồi ở vườn cây hiu hiu mát với cái quạt mo phe phảy chứ luôn lánh xa cái quạt bằng sắt kêu ù ù như chiếc cối xay. Còn ra-đi-ô và ti vi ư? Mắt cụ, tai cụ bây giờ không còn thích ứng với những thứ đồ văn minh ấy nữa.
Gần đây, tôi nhận thấy cụ Huê rất hay nhắc đến những chuyện ngày xưa. Âu cũng là tâm lí tuổi già. Mỗi lần gặp tôi, cụ thường tâm sự những chuyện đại loại như: “Thân mẫu của cụ ngày xưa vẫn kể cho cụ nghe tích Tấm Cám, tích Trầu Cau, tích Trương Chi. Những tích ấy nghe não ruột lắm, tận bây giờ vẫn chưa quên”. Nếu không dốc bầu tâm sự thì cụ lại đọc cho tôi nghe những câu ca dao cổ mà có lẽ cụ đã thuộc lòng từ hồi còn nhỏ: “Con cò mà đi ăn đêm/Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao/Ông ơi ông vớt tôi nao/Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng”... Có duy nhất một lần, chẳng hiểu do một phút phấn khích nào đó, cụ đưa mắt nhìn trước ngó sau như sợ có ai nghe thấy rồi khe khẽ ngâm câu ca: “Trèo lên cây bưởi hái hoa/Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân/Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc/Em lấy chồng anh tiếc lắm thay”. Tiếng ngâm của cụ nghe bùi ngùi, âm u và buồn thê thiết. Ngâm xong câu ca, mặt cụ hơi ửng đỏ như người mắc lỗi. Cụ ghé sát vào tai tôi: “Ngày xưa, làm phận gái mà ngâm nga câu ca ấy là bị quở đấy cháu ạ”. Nghe cụ nói, tôi nhăn nhó tỏ ra khó hiểu. Chẳng lẽ người ngày xưa khắc nghiệt đến thế sao. Những điều cụ Huê kể quả là quá xa lạ với một cô gái mới ngoài hai mươi tuổi, đang sống trong thời đại internet như tôi. Những lúc ấy, tôi thấy thương cụ Huê vô hạn.
Đầu năm nay cụ Huê có vẻ yếu đi nhiều. Cụ thường nằm bệt trên giường. Lúc nhớ lúc quên, lúc mơ lúc tỉnh. Cả tuần cụ không bước ra nổi cái mảnh vườn nhỏ mà trước đây ngày nào cụ cũng ra hóng gió cùng chiếc quạt mo. Ông cháu ruột bế cụ lên cân, dõng dạc tuyên bố với cả nhà: “Mười sáu cân rưỡi!”. Nghe kể lại sự việc này tôi thoáng ngậm ngùi. Thật chua xót. Cái thân xác một con người trải qua bao sương gió, cuối cùng chỉ còn lại ngần ấy thôi sao? Quả thật, khuôn mặt cụ Huê bây giờ chỉ bằng khuôn mặt một cô bé lên ba. Da mặt thì nhăn nhúm như quả trám khô.
Tôi hiểu cụ Huê không còn sống được bao lâu nữa. Về thăm cụ lần ấy, nhân lúc vui chuyện, tôi hỏi:
Nếu bây giờ có được một điều ước cho bản thân mình, cụ sẽ ước điều gì ạ?
Cụ Huê lặng đi một lúc lâu, vẻ như hơi bất ngờ trước câu hỏi của tôi. Nhìn vẻ mặt đăm đăm của cụ, tôi hồi hộp không hiểu sẽ nhận được câu trả lời ra sao? Vàng bạc châu báu, dẫu có chất đống thì bây giờ đối với cụ cũng đã trở thành vô nghĩa. Ngay cả sức khỏe là cái thứ mà người ta vẫn cho là quý giá nhất trên đời nhưng hình như với một người đã thọ trên trăm tuổi như cụ, chưa chắc đã là một ước ao cháy bỏng. Bất chợt, cụ khẽ nắm lấy tay tôi:
- Cụ già cả lắm rồi, cụ không ước những thứ cao xa đâu cháu ạ.
Tôi cũng nắm chặt tay cụ:
- Cháu biết ạ. Xin cụ cứ nói với cháu cái điều ước mà cụ thích. Dù đi cùng trời cuối biển cháu cũng sẽ tìm bằng được cho cụ!
Cặp môi héo quắt của cụ thoáng một nụ cười xa xăm:
- Cũng không có gì khó lắm đâu cháu ạ. Cụ chỉ ước có một… một… chiếc gương thôi.
Tôi ngớ người. Chiếc gương? Tôi hiểu, một người mộc mạc, giản dị và chân chất như cụ Huê chắc không có kiểu nói bóng gió xa xôi. Chiếc gương mà cụ vừa nhắc tới đúng chỉ là một chiếc gương thật. Nhưng sao cụ lại ước có một chiếc gương? Lòng đầy thắc mắc, tôi vội hỏi lại:
- Chiếc gương? Ý cụ muốn nói đến chiếc gương soi phải không ạ?
- Đúng thế cháu ạ.
Ngập ngừng một lúc lâu, cụ nói bằng một giọng trầm trầm:
- Cháu có biết là cả đời, cụ chỉ được soi gương đúng một lần không? Đó là cái lần cụ chuẩn bị đi làm dâu nhà người. Khi giúp cụ vấn lại vành khăn, bà mối đưa chiếc gương bằng cái miệng chén đến trước mặt cụ. Lần ấy, cụ đã được nhìn thấy mặt mình rất rõ. Rõ lắm cháu ạ.
Cụ khẽ thở dài, nói tiếp:
- Nhưng cả đời, cụ chỉ được nhìn thấy mặt mình mỗi cái lần ấy thôi. Nhất là sau ngày cụ ông mất, cụ chả bao giờ dám soi gương nữa. Song thân cụ dạy đã là gái có chồng, dù chồng còn hay chết thì cũng không bao giờ được ngắm mình trong gương nữa. Người ta sẽ cười là gái lẳng lơ. Mà thực tình thì từ đó, cụ cũng chẳng thiết gì đến gương lược nữa.
Nghe cụ kể, đầu tôi cứ ong ong lên. Trời ơi! Nếu không có cuộc trò chuyện này cùng cụ thì một đứa như tôi sao hình dung nổi cái tình cảnh bất thường, kinh dị đến khó tin như vậy. Cả đời chỉ được soi gương duy nhất một lần vào cái ngày đi lấy chồng vậy sao? Nhưng tôi biết là cụ Huê không bao giờ nói dối. Chuyện đến vậy thì sự ao ước về chiếc gương của cụ đúng là rất đáng phải đắp bù. Nhưng tôi trộm nghĩ, nếu bây giờ thấy khuôn mặt nhăn nhúm của mình trong gương liệu cụ có đau lòng không? Tôi nhìn cụ, cười trong nước mắt:
- Nhất định cháu sẽ mua cho cụ một chiếc gương đẹp nhất trần đời. Nhưng cụ không để ý đến từ “nhưng” của tôi, khẽ reo lên:
- Cụ mang ơn cháu lắm. Cụ ước cái gương lâu lắm rồi nhưng chả dám nói với ai. Họ không hiểu, lại cho là… À, mà điều này cụ cũng chỉ dám nói với một mình cháu thôi. Đừng cho ai biết cháu nhá!
Do chuyến đi công tác đột xuất nên phải tới hơn một tuần sau tôi mới mang chiếc gương về cho cụ Huê với tâm trạng hân hoan nhưng cũng đầy bối rối, lo âu.
Cụ Huê xem chừng yếu hơn mọi lần. Tôi đến bên giường, phải một lúc khá lâu cụ mới khẽ mở cặp mắt đầy mệt mỏi, nheo nheo nhìn tôi mơ mơ, tỉnh tỉnh. Nhưng khi phát hiện thấy chiếc gương trong tay tôi, ánh mắt cụ sáng rực lên.
Tôi nhanh nhẩu:
- Cháu đây! Cụ có nhận ra cháu không? Cháu đã đem điều ước về cho cụ đây ạ.
Cụ Huê khẽ gật đầu rồi lập cập đưa chiếc gương lên trước mặt. Tim tôi se thắt lại. Sẽ xót xa biết bao nếu tôi phải chứng kiến cái hình ảnh đôi tay cụ buông thõng xuống một cách đầy tuyệt vọng sau khi nhìn thấy mặt mình trong gương.
Chăm chăm soi vào gương một lúc, bỗng cụ Huê thốt lên mấy tiếng đầy phấn khích:
- Ô kìa! Ô kìa!
Tôi ngạc nhiên:
- Cụ nói sao cơ ạ?
- Ô kìa! Cái hình trong gương là cái hình của cụ ngày mới đi lấy chồng đấy. Đúng là hồi cụ mười sáu tuổi đấy mà. Cháu nhìn xem này - Cụ đưa gương cho tôi với nụ cười tươi roi rói - Cụ kháu khỉnh thế kia thì cái nhà ông phó lí bên làng Thạch mới phải lòng mà vội vàng mang trầu cau sang dạm ngõ đấy cháu ạ.
Tôi đờ người không thốt nổi một lời. Không ngờ câu chuyện lại diễn ra một cách kì lạ đến vậy. Do đôi mắt đã quá mờ hay do phép mầu gì mà cụ Huê đã nhìn lầm hình mình ngày hôm nay thành bóng hình của mình gần chín mươi năm về trước?
Cụ Huê ấn chiếc gương vào tay tôi, ríu rít như giọng một thiếu nữ mười sáu tuổi:
- Đây! Cháu nhìn vào gương mà xem. Hình cụ đấy! Hình của cụ trong ngày đi lấy chồng đấy. Đẹp lắm! Kháu khỉnh lắm!
Tôi đỡ chiếc gương trong tay cụ Huê, cố giấu nước mắt. Tôi hiểu ra rồi. Nhưng tôi không nỡ gọi hiện tượng này là hiện tượng “lẫn” hoặc nói theo ngôn ngữ y học là bệnh lão hóa hay loạn thần tuổi già gì đó. Không! Đó chỉ là một ảo ảnh. Giống như một người đi trên sa mạc quá lâu ngày, do khát cháy mà bỗng thấy phía trước mặt mình hiện ra một dòng sông hay con suối trong lành. Nó cũng giống như một ẩn ức tươi đẹp, bị dồn nén, khuất chìm đâu đó trong cõi hư vô bỗng thăng hoa hiện về rực rỡ giữa cõi người.
Tôi run run nâng chiếc gương đưa lên soi, rồi nhẹ nhõm thốt lên:
- Chao ôi! Đúng là cụ rồi! Cụ đẹp thật. Cứ như tiên nữ giáng trần ấy.
Cụ Huê gật đầu kiêu hãnh, thì thầm nói trong nụ cười hồn nhiên như con trẻ:
- Nhưng này. Cụ giao hẹn là cái chuyện cụ và cháu soi gương hôm nay chỉ có cụ và cháu biết thôi đấy nhá! Song thân của cụ mà biết thì…
***
Sáng hôm sau, một buổi sớm bầu trời trong vắt như một chiếc gương khổng lồ, cụ Huê nhẹ nhàng giã biệt cõi đời.
Tôi lén đưa chiếc gương vào trong quan tài của cụ. Nói “lén” là bởi tôi và cụ đã giao ước với nhau rằng cái chuyện soi gương hôm qua là một bí mật, chỉ có cụ và tôi được biết mà thôi.
Truyện ngắn được chọn giảng dạy trong tài liệu giảng dạy môn ngữ văn lớp 12 địa phương Thái Nguyên.
![]() |
| Nhà văn Hồ Thủy Giang |
NHÀ VĂN HỒ THỦY GIANG
Họ và tên khai sinh: Đào Việt Hải.
Năm sinh: 1947.
Quê quán: Quận Kiến An, Thành phố Hải Phòng.
Thường trú: phường Phan Đình Phùng, tỉnh Thái Nguyên.
Dân tộc: Kinh.
Vào Hội VHNT tỉnh Bắc Thái, nay là Hội VHNT tỉnh Nguyên năm 1987. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hội viên Hội Điện ảnh Việt Nam, hội viên Hội VHNT các Dân tộc thiểu số Việt Nam.
Từ năm 1969 đến năm 1980, nhà văn Hồ Thủy Giang dạy học tại huyện Đại Từ, tỉnh Bắc Thái; năm 1980 công tác tại Sở Văn hóa - Thông tin Bắc Thái; năm 1983 đến 1987, là Phó Trưởng phòng Xuất bản, Sở Văn hóa - Thông tin Bắc Thái; năm 1987 công tác tại Hội VHNT Bắc Thái, năm 1992 đến 1998, Phó Chủ tịch Hội VHNT Bắc Thái; năm 2003 nghỉ hưu; từ năm 2008 đến 2013 là Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật - Hội VHNT tỉnh Thái Nguyên.
Tác phẩm chính: Bạn cùng lớp (tập truyện vừa, 1981); Cô Bánh Xích (tập truyện ngắn, 1985); Con tàu đến muộn (tập truyện ngắn, 1989); Lúc ấy biển hoàng hôn (tập truyện ngắn, 2000, tái bản 2001); Cuồng phong (tập truyện ngắn, 2002); Mùa gió heo may (tập truyện ngắn, 2005); Nhà có năm người (tập truyện ngắn, 2009); Người đẹp thường nhiều bí ẩn (tập truyện ngắn, 2011); Không phải là ảo ảnh (tập truyện ngắn, 2013); Mắt rừng (tiểu thuyết, 2015); Con đường cát bụi (tiểu thuyết, 2016); Tể tướng Lưu Nhân Chú (tiểu thuyết, năm 2016, tái bản năm 2020, 2024), Phố núi (tiểu thuyết, năm 2000, tái bản năm 2021, 2022); Những người mở đường (tiểu thuyết năm 2015, tái bản 2016); Thái Nguyên một dòng chảy văn chương (phê bình tiểu luận, 2010); Vẻ đẹp văn chương (phê bình tiểu luận, 2020) và nhiều kịch bản phim truyện được phát sóng…
Giải thưởng chính: Giải thưởng truyện ngắn Tuần báo Văn nghệ - Hội Nhà văn (1972); Giải thưởng truyện ngắn Tạp chí Văn nghệ Quân đội (1980, 1990); Giải thưởng Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam (1997); Giải thưởng tiểu thuyết Hội Nhà văn - Bộ Công an (2015); Giải thưởng tiểu thuyết Hội Nhà văn - Bộ Giao thông vận tải (2015); Giải thưởng VHNT 5 năm tỉnh Thái Nguyên (1997 - 2001), (2002 - 2006), (2007 - 2011), (2012 - 2016), (2017 - 2021)
Giải thưởng kịch bản phim truyện Bộ Văn hóa (2007); Giải thưởng kịch bản phim truyện điện ảnh của Hội Điện ảnh Việt Nam (2015)…









Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin