Mây biết nói (*)

Dương Thu Hà, Nguyễn Thị Linh Nga 15:22, 09/12/2025

Trang Văn học Thiếu nhi số 10 trân trọng gửi tới bạn đọc hai truyện ngắn đặc sắc của hai bạn học sinh lớp 8 là Dương Thu Hà và Nguyễn Thị Linh Nga.

Truyện ngắn "Mây biết nói" của Dương Thu Hà kể về một tình bạn giữa một cậu bé và đám mây nhỏ màu xanh lam biết nói. Đám mây nhỏ đi lạc và được cậu bé đưa về. Câu chuyện là một minh chứng sinh động cho sự kết nối kỳ diệu giữa con người và thiên nhiên. Để hiểu được "ngôn ngữ" của nhau và bình an chung sống, cần phải có niềm tin, sự chân thành và lòng dũng cảm.

Truyện ngắn "Quán chè cuối ngõ" của Nguyễn Thị Linh Nga là một câu chuyện vô cùng tinh tế kể về một món giải khát quen thuộc của người Việt nhưng mang đậm hồn cốt và giá trị thưởng thức. Hồn cốt của món ăn không chỉ là hương vị của nó, mà còn là một không gian văn hóa đậm nét, nơi ta bâng khuâng khi có mặt và thổn thức nhớ khi rời xa.

(Nhà văn Tống Ngọc Hân chọn và giới thiệu)

 

Mây biết nói

Truyện ngắn của Dương Thu Hà (Lớp 8C, Trường THCS Tích Lương)

Xa tít nơi rặng núi Xanh Lam, có một ngôi làng nhỏ nằm nép dưới những đám mây lơ lửng. Ở đó, người dân quen với việc mỗi buổi sáng mây tràn về phủ kín mái nhà, còn buổi chiều, mặt trời lại chiếu qua làn sương như rót mật xuống đồng.

Ngôi làng ấy tên là Mây Trắng, và có một cậu bé tên Tí. Tí mười hai tuổi, chân đi dép rơm, tóc xù như tổ quạ, suốt ngày thích ngẩng đầu nhìn trời. Trong khi các bạn cùng tuổi lo chăn trâu, cấy lúa, Tí lại ngồi vẽ hình những đám mây. Cậu bảo mây có linh hồn và biết nói.

Sông mây. Ảnh: H.H
Sông mây. Ảnh: H.H

Người lớn cười: “Trẻ con tưởng tượng thôi, mây chỉ là nước bay lên, làm sao mà nói được”! Nhưng Tí không tin. Cậu có cảm giác, mỗi khi mình buồn, đám mây phía trên đầu lại dừng lâu hơn một chút. Khi cậu vui, mây như cũng xòe ra thành hình trái tim.

Một buổi trưa mùa hạ, khi Tí đang ngồi bên bờ suối, cậu thấy một đám mây nhỏ xíu như quả bóng màu lam nhạt, khác hẳn với mây trắng thường thấy. Tí tròn mắt, nghĩ thầm. Ồ, mây mà lại bay thấp thế sao? Vậy mà đám mây nhỏ như hiểu được. Nó khẽ rung nhè nhẹ, phát ra giọng lí nhí như tiếng gió:

- Chào bạn! Bạn... có thể giúp mình được không?

Tí nhảy lùi lại, suýt ngã xuống suối. Nhưng rồi tò mò thắng sợ hãi, cậu ghé sát:

- Cậu là ai vậy?

- Mình là Milo, một đám mây học việc. Mình bị lạc khỏi bầu trời. Nếu không trở lại trước khi hoàng hôn xuống, mình sẽ tan biến mất!

Nghe thế, Tí hoảng hốt:

- Vậy phải làm sao bây giờ?

Milo cuộn tròn lại, thả xuống đất một giọt nước lấp lánh:

- Phải tới được đỉnh Núi Mây, nơi gió lên mạnh nhất. Ở đó có Cổng Trời, mình mới về được. Nhưng mình không nhớ đường.

Tí nhìn lên đỉnh Lam Xanh, nơi cao đến mức sương che kín cả đỉnh, chẳng ai trong làng từng leo đến đó. Cậu cắn môi, rồi nói quả quyết:

- Được rồi! Mình sẽ đưa cậu lên đó!

Hai “bạn đồng hành” bắt đầu chuyến đi. Milo trôi là là bên cạnh, đôi khi vỗ vỗ vào vai Tí như khích lệ. Họ đi qua khu rừng Gió Gào, nơi những cơn gió mạnh thổi làm cây nghiêng ngả. Tí dùng dây buộc chặt Milo để mây nhỏ không bị cuốn đi. Giữa rừng, mây đen kéo đến, sấm sét nổ đùng đoàng. Milo sợ run lên:

- Mình sợ sét lắm, nó làm mình tan mất đó!

Tí nhìn quanh, thấy một hang đá nhỏ, Tí kéo Milo trốn vào đó. Trong khi chờ mưa qua, Tí kể chuyện trong làng cho Milo nghe. Chuyện thả diều, chuyện những chú trâu con, chuyện món bánh ngọt mẹ làm mỗi Tết. Milo cười khúc khích:

- Ở trên trời chẳng có ai kể chuyện cho nhau nghe đâu. Toàn mây lớn nói chuyện nghiêm túc thôi. Mình thích ở gần cậu hơn.

Tí bật cười:

- Thế thì nhanh về đi, để khi nào xuống chơi mình còn kể tiếp!

Milo im lặng. Không hiểu sao, nó thấy trong lòng hơi nhói.

Cuối cùng họ cũng tới đỉnh Núi Mây, nơi gió thổi mạnh đến mức đá bay lả tả. Ở giữa thung lũng là hai cột đá đối xứng khổng lồ, khắc hình xoáy tròn. Milo reo lên:

- Đây rồi! Chỉ cần đi qua cánh cổng đó, mình sẽ trở về!

Nhưng bỗng từ đỉnh cột, một luồng sáng lóe lên. Một giọng vang rền như sấm:

- Ai dám đến gần Cổng Trời mà không được ta cho phép?

Từ trên cao, một đám mây khổng lồ màu xám bạc hạ xuống. Đó là Thủ hộ Nimbus, người canh giữ ranh giới giữa trời và đất. Nimbus nghiêm giọng:

- Mây nhỏ Milo, ngươi rời khỏi tầng trời mà không xin phép. Còn ngươi, con người kia, sao dám can thiệp vào chuyện của mây?

Tí bước lên, giọng run nhưng kiên quyết:

- Cháu chỉ muốn giúp bạn về nhà thôi ạ.

- Con người và mây không thể làm bạn. Ngươi đã phạm luật!

Nói rồi, Nimbus thổi một luồng gió mạnh, đẩy Tí lăn xuống sườn núi. Milo hét lên:

- Dừng lại! Nếu không có bạn ấy, con đã tan biến rồi!

Tí cố bám vào rễ cây, gió cuốn tóc và cát bay mù. Cậu hét lên:

- Mây cũng biết cảm ơn, biết buồn vui như con người đấy! Sao các người không hiểu?

Nimbus dừng lại. Đôi mắt mây khổng lồ lóe sáng. Một lát sau, ông khẽ thở dài:

- Đã rất lâu rồi ta mới nghe thấy lời nói như vậy. Con người xưa kia từng nói điều đó, trước khi họ quên mất bầu trời.

Gió dịu dần. Nimbus nhìn Milo:

- Con có muốn trở về không, mây nhỏ?

- Con muốn… nhưng con cũng muốn được gặp lại bạn con nữa!

Nimbus gật đầu:

- Được. Từ nay, khi mưa về làng Mây Trắng, con có thể mang hơi thở của mình xuống, kể chuyện cùng gió. Đó là đặc ân duy nhất ta có thể cho.

Rồi ông giơ tay. Một luồng ánh sáng bao quanh Milo. Đám mây nhỏ dần bay lên, tan vào vầng sáng trắng, chỉ còn lại giọng nói trong gió:

- Cảm ơn bạn, Tí. Đừng quên nhìn lên nhé!

Tí trở về làng. Không ai tin vào câu chuyện cậu kể. Rằng cậu đã nói chuyện với mây, rằng trên trời có người canh cổng. Nhưng từ hôm đó, mỗi lần mưa đến, Tí lại thấy trong giọt nước lấp lánh ánh xanh lam.Và khi cậu ngẩng lên, giữa những đám mây trắng, luôn có một đám mây nhỏ xanh lam trôi chậm rãi giữa bầu trời, như đang mỉm cười.

Tí lớn dần, vẫn giữ thói quen ngẩng đầu nhìn trời. Cậu trở thành người kể chuyện của làng. Cậu thường nói với những đứa trẻ rằng: Mây biết nói, nếu con người chịu lắng nghe, tin và sẵn sàng bước tới, thì điều kỳ diệu luôn ở đó.

Hàng trăm năm sau, người ta kể rằng ở ngôi làng Mây Trắng, mỗi khi có một đứa trẻ sinh ra vào mùa mưa đầu tiên, giọt mưa đầu tiên rơi xuống má nó bao giờ cũng ánh lên màu xanh lam. Người lớn bảo đó là điềm lành, là dấu hiệu của Mây Biết Nói. Còn trong gió vẫn văng vẳng tiếng cười trong trẻo: Chúng ta vẫn là bạn, phải không, Tí?

 

Quán chè cuối ngõ

Truyện ngắn của Nguyễn Thị Linh Nga (Lớp 8A7, Trường THCS Chu Văn An)

“Hồi nhỏ, tôi thường lang thang ở con phố gần nhà sau giờ học. Nơi nổi tiếng với các quán ăn trải dài hai bên đường. Tiếng chảo dầu xèo xèo vang khắp nơi, cùng với mùi thơm nức mũi của xiên nướng và hơi khói bốc lên từ mấy bát bún nóng hổi cứ níu lấy bước chân tôi. Vậy mà, cuối cùng, tôi vẫn dừng chân ở một quán chẳng mấy nổi bật, một quán chè nhỏ xíu ở cuối con đường.

Ban đầu tôi cũng chẳng để ý gì tới quán. Nó không được trang trí cầu kì, cũng chẳng có điều hòa mát rượi mát lạnh như mấy chỗ khác. Nhìn từ xa thôi đã thấy người nóng nực đến ngán ngẩm mà chẳng buồn ăn. Cho tới một hôm, giữa trưa hè nóng như đổ lửa, Hà Anh, một cô bạn hàng xóm nằng nặc rủ tôi đi ăn chè. Vừa nghe bốn tiếng “quán chè cuối ngõ “ là tôi cuống quýt từ chối. Mãi đến khi nó đem bài tập về nhà ra để dụ dỗ thì tôi mới miễn cưỡng đi cùng. Biểu cảm cũng chẳng có gì là vui vẻ.

Vừa đi tới trước cửa quán thì tôi đã thở hổn hển, mồ hôi nhễ nhại chảy dọc từ trán xuống. Chưa kịp để tôi than vãn lấy một tiếng, Hà Anh đã quay ra cười với bác chủ quán. Bác ấy nhìn rất hiền hậu, dáng người đầy đặn, giọng nhẹ nhàng trìu mến rất êm tai. Trước mặt bác là mấy cái xoong đựng "topping", nào là trân châu, thạch xanh, đỗ đen, đỗ đỏ đủ cả. Toàn là những món tôi thích. Tất cả đều sóng sánh nhìn đến là thèm. Tôi nhìn chỗ đó, mặt lập tức sáng lên.

“ Bác ơi cho con như cũ nhé, lần này hai bát ạ!”. Hà Anh cất giọng trong veo.

“Được, được, hai đứa vào trong đi”. Bác gật đầu, xua tay bảo bọn tôi đi vào.

“Dạ thôi cho con mang”. Tôi giơ tay ra trước, vội nói. Vậy mà còn chưa dứt câu thì Hà Anh bất ngờ đưa tay bịt chặt mồm tôi rồi lôi vào trong quán. Tôi vùng ra, vừa lau mồ hôi vừa hít lấy hít để. “Mày làm cái gì thế ”? “Mày không đọc cái biển trên đầu à? Nó nhìn tôi bằng ánh mắt khó hiểu. Tôi ngẩn người, nghệt mặt nhìn lại nó. Nó thở dài thườn thượt, làm như tôi mới bỏ lỡ điều gì bí ẩn nhất thế gian:

“Mày không biết thật luôn? quán này chỉ được ăn ở đây thôi”.

“Cái gì cơ? Tại sao lại thế”? Tôi tròn mắt nhìn, vẫn không hiểu gì.

Nó nhún vai, lại còn ra vẻ bí hiểm. “Rồi mày sẽ biết”. “Làm màu…” tôi lẩm bẩm, mắt liếc quanh đầy tò mò.

Không gian trong quán cũng không có gì đặc biệt, chỉ có mấy bộ bàn ghế nhựa cũ kỹ, cứ như nó đã ở đó khá lâu rồi. Quán không có máy lạnh, chỉ có mấy cái quạt tường đang kêu ro ro, miễn cưỡng làm ra chút gió nhẹ. Trên tường còn treo mấy tờ báo cũ đã ố vàng, nhưng nhìn lại gần gũi, thân thuộc đến lạ kì. Chiếc radio nhỏ được đặt ở quầy của bác chủ quán, lúc lại phát mấy bản nhạc cổ xưa, lúc lại im lặng như đang nghe kể chuyện của mấy vị khách. Mùi chè thoang thoảng trong không khí, lẫn với mùi lá dứa, mùi nước đường ngòn ngọt, hòa quyện lại mang cho tôi cảm giác... cứ như quay về lúc còn bé vậy.

Lúc tôi quay đầu lại, bác chủ quán đã bưng ra hai cốc chè đầy ắp, mặt trên phủ đá bào mát lạnh, bên dưới là một tầng màu sắc ngọt ngào: thạch xanh trong vắt, trân châu óng ánh, đậu đỏ, đậu đen xếp gọn gàng, nước chè sóng sánh tỏa ra mùi hơi dịu nhẹ, đầy mê hoặc. Bác đặt hai cốc chè xuống, vẫn giữ nụ cười trìu mến: "Hai đứa ăn đi, cho đỡ nóng".

Tôi cầm thìa lên, chần chừ một chút, rồi múc một thìa đầy đưa vào miệng. Mọi thứ như vỡ òa, chẳng phải là cảm giác “ngon” thông thường mà tôi thường đánh giá cho mấy cái xiên nướng, mà là một vị gì đó rất quen thuộc, cứ như tôi đã từng nếm qua rất lâu rồi. Một vị ngọt không hề cầu kỳ, không "ồn ào" mà êm ái, dịu dàng tới lạ kì.

Nó là cái vị chè mà bà ngoại tôi từng nấu, những năm tôi còn bé xíu, ngồi xích đu trước hiên nhà ăn chè giữa trưa, nghe tiếng ve kêu và nghe bà kể chuyện cổ tích, nó cũng là vị ngọt như thế, cái mát của gió hây hây đơn sơ như thế. Trong khoảnh khắc, thời gian bỗng dưng trôi chậm lại. Tôi ngước nhìn quanh quán. Vẫn là bàn ghế cũ, tiếng quạt quay, radio khe khẽ ngân nga. Và người bạn trước mắt đang húp từng thìa chè như chưa từng ăn món gì ngon đến vậy.

Cũng từ ấy tôi thành khách quen của quán, chiều nào cũng tới, lúc kéo bạn bè theo, lúc đi một mình, tới nỗi bà chủ quán thấy tôi là làm chè ngay không cần hỏi. Và lần nào tôi cũng tự hỏi rằng, tại sao cứ phải ăn tại đây mà không thể mang chè về? Nếu để khách mang chè về, có thể quán sẽ bán được nhiều hơn. Nhưng dần dần, khi những buổi trưa oi nồng trở nên dịu mát bởi thìa chè trong tay, khi tôi bắt đầu nghe quen tiếng gió quạt cũ kỹ, mùi thơm thoảng trong không khí, và cả những câu chuyện rì rầm giữa các vị khách khác trong quán. Thì tôi hiểu, bát chè ấy không chỉ ngon bởi nguyên liệu. Nó ngon vì tôi được ngồi xuống, được thở chậm lại, được thảnh thơi lắng nghe nhịp sống quanh mình. Nếu mang về, tôi sẽ chỉ còn thấy đá tan, chè nguội và một mùi thơm không kịp chạm vào lòng.

Hóa ra có những thứ, phải đúng nơi đúng lúc, mới giữ được nguyên vẹn hương vị của nó. Và đôi khi, thứ ta cần nhất, chỉ là một trạm dừng chân, để đứng lại giữa dòng đời đang vội vã.

Lúc đó tôi bật cười, quay qua bác chủ quán mà tinh nghịch nói: “Bác ơi, cảm ơn quán chè của bác nhé". Bác cũng nhún vai cười, còn giơ ngón cái về phía tôi.