Cho đến tận bây giờ, mỗi dịp đi qua phía Bắc huyện Đại Từ (cũ), qua trung tâm xã Bản Ngoại (nay là xã Phú Thịnh), đến một lối rẽ quen thuộc, trong tôi lại trào lên một niềm xúc cảm vô bờ. Gần năm mươi năm trước, qua lối rẽ ấy chừng vài trăm mét là tới mái trường có tên là "Trường Thanh niên dân tộc nội trú", nơi tôi đã từng có ba năm theo học đầy gian nan vất vả nhưng chan chứa niềm vui.
Vào những năm của thập kỷ 70, thế kỷ trước, huyện Đại Từ có một mái trường khá đặc biệt, dành riêng cho những học sinh đã vào tuổi thanh niên (đã quá tuổi học sinh phổ thông) của các dân tộc trong huyện. Ngày ấy cả Đại Từ chỉ có một trường phổ thông cấp ba đóng ở trung tâm huyện nên chỉ có những gia đình ở gần thị trấn hoặc kinh tế khá giả mới đủ điều kiện cho con đi học. Nhiều học sinh trong huyện, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa phải bỏ học, dù muốn nhưng không có điều kiện học lên. Sau khi tốt nghiệp cấp II, tôi tham gia đội thủy lợi của xã hơn ba năm nhưng lòng vẫn âm thầm nuôi dưỡng mộng đèn sách.
Năm 1977, nghe tin trường cấp III "Thanh niên dân tộc nội trú" được thành lập tại xã Bản Ngoại, Đại Từ, tôi vội vã nộp đơn thi và trúng tuyển.
![]() |
| Nhà thờ Bản Ngoại (nay là xã Phú Thịnh). Ảnh: Đào Tuấn |
Hồi ấy, nhà trường là một mô hình giáo dục rất mới, theo phương thức vừa học vừa làm. Học sinh học, lao động và ăn ngủ ngay tại kí túc xá. Buổi chiều học trên lớp, buổi sáng lao động trồng cấy lương thực và làm tất cả các công việc nhà nông để tự nuôi sống bản thân. Nhà trường được huyện cấp cho một số diện tích ruộng, đồi để cấy lúa, trồng chè, trồng màu và chăn nuôi… Học sinh phải tự túc mọi thứ, kể từ cái kim, sợi chỉ. Lớp chúng tôi là lớp 8 (hệ 10 năm) đầu tiên. Tuy là lớp đầu cấp nhưng đứa trẻ nhất trong lớp cũng đã 17 tuổi. Buổi học đầu tiên vừa vui, vừa cảm động. Là những học sinh từng thất học, tương lai mù mịt, nay chúng tôi lại có cơ hội "làm lại cuộc đời", nên trong lòng ai cũng nuôi một niềm hy vọng lớn. Ngồi trên bàn học, chúng tôi run run, nắn nót ghi ở trang đầu mỗi quyển vở dòng chữ cái “TNDTk1” (Thanh Niên Dân tộc khóa 1) như sự mở ra một trang đời mới mẻ, tươi vui.
Tôi vẫn nhớ như in khung cảnh của nhà trường năm ấy. Một không gian rộng rãi với hai căn nhà xây cấp 4, lợp lá cọ dùng làm lớp học, còn lại là nhà tranh vách đất làm kí túc xá của học sinh. Khu nhà tập thể của thầy cô cũng chỉ vách đất lợp lá.
Hòa trong đời sống khó khăn của cả nước trong thời bao cấp, việc học tập, sản xuất của chúng tôi tuy rất vất vả, thiếu thốn nhưng thầy trò vẫn đủ ăn, đủ mặc. Các khoản chi tiêu khác của nhà trường đều trông vào việc bán những sản phẩm tự làm ra, mà ngày ấy chủ yếu là chè búp do thầy trò gieo trồng, thu hoạch và chế biến.
Mô hình hoạt động của nhà trường có phần rất giống một hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Thầy Triệu Sơn, hiệu trưởng nhà trường ngoài việc giảng dạy còn phải lo tính toán cân đối số thóc thu được bao nhiêu trong một tháng, một năm; khoai, sắn độn cơm thế nào để đỡ cảnh no dồn, đói góp, rồi các khoản chi tiêu cho học trò... Thầy vừa giống như một chủ nhiệm hợp tác xã, vừa giống một người cha quán xuyến gia đình. Buổi sáng nào thầy cũng ra ruộng cày, cấy, lên đồi hái chè hoặc vào rừng đốn củi với học sinh…
Những tháng ngày gian truân ấy đã để lại trong tôi biết bao ký ức đẹp, khó quên. Là học trò lớn tuổi nhất lớp, tôi được phân công làm tổ trưởng tổ cày.
Mỗi buổi sáng, tất cả mọi người hít đầy một bụng… không khí, rồi ùa ra ruộng cày, bừa để có đất cho chị em cấy lúa. Đi làm mà bụng đói cồn cào, chúng tôi thường "chống đói" bằng việc trò chuyện, cười đùa làm vui. Vì trong lớp có nhiều dân tộc khác nhau nên chúng tôi thường lấy tinh thần "giao thoa văn hóa" làm đề tài. Tôi vẫn nhớ như in câu chuyện học nói tiếng Tày. Thằng Tống Tỵ người xã Đức Lương, một xã xa xôi nhất trong huyện, nói như vẻ truyền dạy:
- Ná mỳ là không, kin khẩu là ăn cơm, phay phưa là đi bừa.
Thằng Phượng trong tổ cày của tôi đang lúi húi ở đầu bờ quay sang thằng Tống Tỵ, nói to:
- Nói như thằng Tỵ khó nhớ lắm. Nghe tao tổng kết bằng thơ đây này.
Rồi Phượng hắng giọng đọc:
- “Ná mỳ, kin khấu, phây phưa/có gì kin được mang đưa cho mình”
Cả tổ cày cười ngặt nghẽo. Tưởng bài thơ nửa Tày nửa Kinh của thằng Phượng chỉ dừng lại ở tổ cày chúng tôi, nhưng không, nó đã lan ra cả trường. Sau đấy, ai gặp chúng tôi cũng “Ná mỳ kin khấu phây phưa/có gì kin được mang đưa cho mình/”. Câu thơ ấy, có lẽ cả trường không bao giờ quên. Hóa ra, lũ học sinh trường thanh niên dân tộc nội trú của chúng tôi hồi ấy đã có tinh thần "hòa hợp dân tộc" ra trò.
Lại nhớ một lần cả lớp đi hái chè. Dinh, cô bạn ngồi cùng bàn với tôi đang thoăn thoắt hái những búp chè non mỡn trên thảm chè xanh mướt, bỗng đưa một búp chè lên nói với tôi:
- Em đố anh búp chè này trông giống cái gì?
Tôi ngước nhìn gật gù đáp:
- Giống một ngọn cây.
Em nguýt:
- Thế thì đố làm cái gì lố!
- Thế em bảo nó giống cái gì?
- Giống như ngọn đèn dầu đang cháy.
Tôi sững người về hình ảnh đầy lãng mạn của một cô gái người Tày từng chỉ quanh năm sống trong thôn bản. Em nói đúng, đúng cả hai nghĩa. Cái tôm chè nhọn vươn thẳng lên như ngọn đèn đang cháy, phần nữa, toàn bộ số tiền thu được từ việc bán chè, nhà trường dành riêng để mua đèn và dầu đốt cho các thầy cô và học sinh chúng tôi. Vào mùa hè, chè nhiều búp thì chúng tôi mỗi đứa một đèn thắp sáng trưng. Còn vào mùa đông chè "ngủ", không có búp thì ba bốn đứa một ngọn đèn chụm đầu cùng học. Qua ý tưởng của cô bạn, tôi chợt hiểu, trí tuệ và tinh thần lãng mạn của học sinh thanh niên dân tộc nội trú chúng tôi thường được tỏa sáng từ chính trong lao động. Mái trường đơn sơ, học trò phần lớn là thất học, yếu kém không vào nổi trường cấp III của huyện nhưng bước chân đến đây như được sự khai sáng bất ngờ. Chúng tôi đã dần trưởng thành từ mái trường nghèo nàn và đơn sơ ấy.
Hết ba năm học chúng tôi mừng mừng, tủi tủi chia tay nhau. Tôi và thằng Hoành cùng tổ cày lên đường nhập ngũ và cùng vào học trường quân y, tốt nghiệp loại giỏi, rồi xung vào đoàn quân tình nguyện sang chiến đấu sáu năm tại nước bạn Campuchia. Có một điều vui là rất nhiều lá thư của cả lớp sau này gửi cho nhau đều được mở đầu bằng câu thơ “Ná mỳ, kin khẩu, phây phưa” của thằng Phượng, như một chỉ dấu của học sinh trường "Thanh niên dân tộc nội trú". Rồi từ chiến trường, tôi nhận được tin thằng Tống Tỵ làm đến chức chủ tịch xã, còn cô bạn ngày ấy đố tôi cái búp chè nhìn giống cái gì thì làm Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Bản Ngoại, xã có ngôi trường của chúng tôi. Từ ngôi trường mái tranh vách đất, từ mảnh ruộng, vườn rau, từ bãi chè, ao cá và những thầy cô xoay trần gặt lúa, vác củi cùng học sinh đã đùm bọc, giáo dục chúng tôi thành những con người có ích cho xã hội. Giờ đây, mỗi người một phương, một công việc khác nhau nhưng hầu hết đều thành đạt, có người trở thành nhà văn, nhà báo, giáo viên, có người thành sĩ quan quân đội, công an… Chắc chắn không ai quên nơi xuất phát của mình - mái trường vất vả, gian nan và đầy thương mến ấy.
Có lẽ các bạn trẻ bây giờ được học tại các nhà trường hiện đại, đầy đủ tiện nghi sẽ không tưởng tượng nổi trên mảnh đất Bản Ngoại, Đại Từ gần 50 năm trước lại có một trường học như thế. Nhưng với chúng tôi đó là những ký ức không thể phai mờ. Nơi ấy, có những NGỌN ĐÈN - BÚP CHÈ mãi thắp sáng con đường sự nghiệp của chúng tôi.








Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin