Bình minh ngập tràn trăng

Phan Thái 13:33, 19/11/2025

Chiều muộn. Sương lãng đãng khép lại tia nắng cuối ngày mỏng manh. Dòng suối Riềng xanh mềm như dải lụa chuyển sang màu lam tím kỳ ảo. Sương sà thấp, vài nếp nhà treo vào sương bồng bềnh. Phía xa dãy núi Phiềng Na sừng sững, trầm mặc. Hưng hăm hở hái đầy tay những cánh hoa pặc pia hít hà mùi hương ngai ngái, tung lên trời. Phút chốc những cánh hoa hóa muôn giọt sáng lấp loáng như hoa tuyết nhẹ nhàng bay.

Minh họa: Ngọc Kiên
Minh họa: Ngọc Kiên

Chiều nay phát xong các phần quà cho các em nhỏ vùng cao, Hưng chia tay đoàn thiện nguyện đón xe về làng Ba Vạ. Mới đó đã hơn 30 năm. Kỳ thực tập chuyên ngành năm ấy, Hưng được cử theo đội thăm dò địa chất. Từ bến xe phố huyện, cuốc bộ nửa ngày đường, hỏi thăm vài chặng Hưng mới đến được mỏm đá hình đầu rồng lối lên núi Phiềng Na, nơi đội dựng lán trại trên thành nhà Mạc cũ. Một năm sau kỳ thực tập, nhận bằng tốt nghiệp, anh sấp ngửa trở lại. Làng chỉ còn thưa thớt những nếp nhà…

Trước ngã rẽ, Hưng sững người nhìn tấm biển ghi “Homestay Long Sơn”. Anh mừng thầm vì đêm nay có chỗ nghỉ ngơi tươm tất, không phải xin ngủ nhờ. Ngỡ ngàng trước những đổi thay, một ông lão vác cuốc đi tới, để chắc chắn điểm cần đến, Hưng ngập ngừng:

- Bác cho em hỏi: Đây có phải làng Ba Vạ?

- Ba Vạ là tên cũ, giờ sáp nhập gọi là Tân Phú. Chú tìm ai, chắc lâu chưa tới?

- Ngày xưa em thực tập cùng đoàn khảo sát địa chất, dựng trại trên thành nhà Mạc, nên chỉ quen mế Nhình và cô Hiên.

Ông lão chống cuốc, tư lự:

- Tôi về đây đã lâu, không biết có bà nào tên Nhình. Nghe nói sau đận lũ, đất sạt lở chặn đường vào làng, nhiều hộ dân rủ nhau chuyển vào Tây Nguyên sinh sống. Homestay này vợ chồng cô Huệ trong đó đầu tư, chú hỏi may ra…! Hôm nay vợ chồng họ đi vắng.

Thì ra ông lão được thuê làm vườn. Homestay gồm ba ngôi nhà sàn lợp ngói máng cạnh mỏm đá hình đầu rồng. Tương truyền vị Quận Công phút cùng quẫn nhảy xuống tuẫn tiết. Có lẽ do hình thù mỏm đá, người làng gọi là Long Sơn.

Buổi tối, Hưng năn nỉ mời ông lão làm vườn cùng ăn cơm với mình. Chừng có thiện cảm với người trở lại thăm chốn cũ, ông tạt về nhà thay quần áo, cầm sang chai rượu thuốc, rót đầy hai chén, vui vẻ:

- Mời chú! Nếu chú quen bà Nhình, dễ có đến trên ba mươi năm.

- Chính xác là ba mươi hai năm. Lần em trở lại, một nửa làng đã ra đi.

- Tôi nghe cô chủ nói: Vào đó đất đai rộng, bà con chủ yếu trồng cà phê. Trong một lần về thăm quê cũ, vợ chồng họ mua lại mảnh đất này.

Bữa cơm kéo dài với những câu chuyện về thời vận của một miền quê nghèo. Như chợt nhớ, Hưng ngập ngừng:

- Em không hiểu tại sao làng có tên là Ba Vạ?

Ông lão nhấp ngụm rượu nhỏ, tư lự:

- Đó là một câu chuyện dài đẫm máu, nước mắt. Chắc chú am tường về chính sử.

Bằng chất giọng trầm đục, ông kể - Thế kỷ 16, các tập đoàn phong kiến nhà Mạc và Lê, Trịnh tranh giành quyền bính, gây ra cuộc nội chiến tương tàn. Nhà Mạc suy vi và bị đánh đuổi khỏi kinh thành. Thuộc hạ nhà Mạc chạy lên một số tỉnh miền núi phía Bắc. Một Quận Công tiết nghĩa đưa binh lính và gia tộc nhà Mạc lên vùng này ẩn trú. Dãy núi Phiềng Na được ông cho xây thành. Gia tộc của họ dựng nhà cửa, khai khẩn đất hoang làm ruộng nương bên núi. Tên gọi làng Ba Vạ có từ thời đó, bởi về đây đi lại đã khó, đường lên thành Bản Phủ trên Cao Bằng còn khó hơn. Ai lên Bản Phủ đều phải bỏ lại đồ đạc. Mặt khác vì là nơi ẩn trú, nhiều thứ bị sử dụng tùy tiện, chả ai sắp đặt, cất giữ nên thành đồ ba vạ. Đời sau chắc nghe tích cũ, vị quan nào đó nổi hứng biên thành tên trong sổ tịch điền.

Trăng nhô lên khỏi vòm cây. Ánh trăng giữa làn sương trôi ngang làm núi rừng thêm huyền bí. Nhớ chuyện của các kỹ sư đàn anh, Hưng hỏi:

- Em nghe phong thanh nhiều giai thoại rùng rợn, kinh dị. Rất tiếc thời gian ngắn nên không có điều kiện tìm hiểu.

Ông lão thở dài:

- Thời buổi hỗn mang muôn phận như cỏ rác. Những người được cho là dòng dõi nhà Mạc đều bị truy sát. Đận ấy, một đám lính theo chỉ dấu của tên phản trắc nào đó kéo tới. May mắn được cấp báo, vị Quận Công đã kịp cho dân chúng tản vào rừng. Đám lính chỉ gặp ở làng duy nhất một bà cụ mù lòa. Bà bảo nghe tin binh lính đuổi đến, họ đã cắt rừng trốn lên thành Bản Phủ. Trời sang chiều, đám lính hạ trại, đuổi bắt trâu, lợn giết thịt. Chúng lục tung từng nhà tìm các vò rượu mang ra chén thù chén tạc. Sáng hôm sau, nơi chúng hạ trại chỉ còn lại những thi thể co quắp. Các vò rượu để hớ hênh đãi chúng không chỉ là rượu… Giai thoại thực hư ấy cứ râm ran lan truyền. Gò đất bên suối người ta gọi là mả lính.

Hưng chợt rùng mình ớn lạnh, cơ thể bải hoải. Không rõ anh đã uống bao nhiêu rượu, cũng không nhớ về phòng bằng cách nào… Sáng hôm ấy chân trời ửng đỏ báo hiệu ngày nắng đẹp. Hưng từ biệt đội thăm dò địa chất sau kỳ thực tập. Tới con suối đầu làng Ba Vạ, đột nhiên trận lũ ống từ thượng nguồn cuồn cuộn đổ ập xuống. Tiếng con gái kêu thất thanh vọng lên. Không chút do dự, Hưng quẳng ba lô nhảy xuống dòng nước xiết. Khó khăn lắm Hưng mới túm được tóc cô gái. Dòng nước như thể cuốn phăng đi tất cả. Không thể bơi vào bờ, anh chỉ biết nắm chặt tóc, giật cô khỏi các mô đá mặc dòng lũ vùi dập, quăng quật. Sức cùng lực kiệt, Hưng cố ngước mắt nhìn trời, gắng sức ghìm lọn tóc. Tới gò đất cơn lũ ném anh vào khe đá.

Hưng không biết mình lịm đi bao lâu. Chợt lồng ngực như bị nhào nặn, anh mở mắt. Cô gái trẻ quần áo ướt sũng, tóc rã rượi. Cô nói mình người làng Ba Vạ, tên Hiên, cô vừa bước ra mỏm đá định giặt thì cơn lũ ập tới… Anh gạt đi lời cảm ơn, bởi lúc thấy cô gặp nan chẳng kịp suy nghĩ gì. Trời bỗng dưng tối sầm, gió từng chặp vần vũ, mưa trút sầm sập. Hiên kéo anh vào gốc cây cổ thụ. Trò chuyện một lúc, biết Hưng thực tập tại quê mình, cô dần tĩnh tâm: “Vùng cao khổ thế anh. Sạt lở, mưa lũ trút xuống bất cứ lúc nào. Gò đất ta ngồi đây là mả lính”. “Mả lính? Hưng hỏi lại - Em có sợ không?”. “Hồi bé đi chăn trâu em cũng sợ, lâu dần không sợ nữa. Bố em bảo người sống mới đáng sợ, sợ gì người chết. Ma nó cũng sợ người!

Hiên bước lên đỉnh gò lấy bát hương, chai lọ cọ rửa - Khả năng vài hôm nước mới rút. Em tích nước mưa dùng. Đói có thể nhịn, khát thì không thể”.

Hưng bỗng cảm thấy gai người, rét run lập cập. Hiên nhìn anh lo lắng: “Mặc ướt lâu, không chết vì lũ lại chết vì cảm”. Anh nhìn lại mình và cô gái, cả hai bê bết bùn đất. Bộ quần áo tươm tất anh thay ban sáng nhàu nhĩ, lem luốc. Hưng vuốt bùn trên mặt, bối rối.

Như thể biết anh ngượng ngập, Hiên quay người, điềm nhiên bước ra giữa màn mưa cởi bỏ quần áo. Trong cơn mưa xối xả, cơ thể Hiên ánh lên như ngọc. Vẻ đẹp sơn nữ khiến anh ngây dại. “Tráng mưa đi anh, em rũ quần áo cho” - Hiên quay lại năn nỉ. Hưng bủn rủn, răm rắp làm theo lời cô. Đêm ấy mưa tạnh. Trăng non nõn rắc muôn ánh vàng giữa biển nước lũ đục ngầu…

Hưng và cô về làng trong sự ngỡ ngàng của bà con chòm xóm. Biết anh lao xuống dòng suối cứu Hiên và cả hai bị cuốn vào gò mả lính, ai cũng cho là họ được thần linh độ trì. Chiều hôm đó, Hưng chia tay làng Ba Vạ về trường…

Trăng lai láng. Hưng lội trăng tới mỏm đá hình đầu rồng bên lối lên tòa thành nhà Mạc. Trước mặt anh vị Quận Công tay chống đốc kiếm dáng vẻ uy vũ, áo bào nhóng nhánh trăng:

- Ta chờ ngươi đã lâu!

- Ông chờ tôi?

- Phải! Không dưng ngươi hương khói cho ta. Những kẻ đã chết, không phải ai cũng được nhận nén hương của người đời. Huống hồ…

Vị Quân Công bỏ lửng, thở dài. Hưng nhớ ngày trở lại làng Ba Vạ tìm Hiên. Vốn nghe nói nơi này từng xảy ra nhiều trận chiến tàn khốc, đến nỗi vị Quận Công trong bước đường cùng phải tuẫn tiết để giữ trọn thanh danh. Anh đã mang thẻ hương và chút hoa quả thắp trên mỏm đá này.

- Hình như ông có điều gì muốn nói?

- Lịch sử có những góc khuất. Người đời hiểu biết phiến diện làm nhiều linh hồn bị oan ức. Gò đất nơi ngươi cùng sơn nữ hái hoa, há chẳng được cho là mả lính đó sao? - Hưng sững sờ, người nóng ran. Giây phút hồng hoang giữa mưa lũ ấy chỉ có hai người bên làn nước đục ngầu. Tại sao? Như biết Hưng có cảm giác hổ thẹn, vị Quân Công ôn tồn - Không có cuộc ra tay tàn độc nào và cũng không hề có xương cốt của lính trong gò đất ấy!

- Tôi không hiểu - Hưng ngạc nhiên.

- Nhà Mạc trong cơn biến loạn chạy về phía Bắc lập thành lũy cát cứ, nhưng vẫn muốn cùng nhà Lê tạo dựng cơ đồ cho quốc thái dân an. Bọn ngoại bang thuê “giặc cỏ” mặc binh phục nhà Lê truy sát tạo hiềm khích, không cho hai bên cầu hòa. Trong một trận huyết chiến, xác “giặc cỏ” đầy đồng. Đêm, trận lũ quét cuốn chúng đi không còn một mống. Gò đất chỉ là do lũ bồi.

- Và ông tuẫn tiết trong trận chiến ấy?

- Đó chỉ là đồn thổi của thiên hạ. Trận chiến tiếp theo, binh lực suy kiệt, để bảo toàn mạng sống quân sĩ, ta cho binh lính rời thành rút lên Bản Phủ. Ta bị trọng thương, nếu theo họ tất cả sẽ chết. Một mình ta ở lại trên mỏm đá này...

- Sự nghiệp của nhà Mạc sử sách đã ghi nhận. - Anh rành rọt từng lời - Không ai có thể phủ nhận thành tựu. Tôi đã tới tưởng niệm các vị vua và Vương triều Mạc tại Ngũ Đoan, Hải Phòng.

 - Khắc giờ trăng lên này năm xưa là lúc ta tạ từ dương thế.  Vị Quận Công phẩy tay, bóng ông nhòa dần vào trăng chỉ còn lời như gió thoảng - Quốc gia đã thái bình thịnh trị. Hãy sống là chính mình.

*  *  *

Tiếng chim líu lo bên ô cửa khiến Hưng bừng tỉnh. Giữa bạt ngàn xanh, sắc màu của ngôi làng nhỏ như chiếc khăn thổ cẩm vắt lên vai rừng. Anh dự định hôm nay sẽ qua làng hỏi han tin tức về các hộ dân từng ra đi hơn ba mươi năm trước.

Một chiếc xe con vòng vào sân, người phụ nữ xuống xe, cúi chào lễ phép:

- Cháu chào bác! Đêm qua bác nghỉ lại nhà cháu ạ?

- Homestay này là của cháu?

- Vâng! Vợ chồng cháu về làng lập nghiệp. Mời bác vào nhà uống nước ạ!

Linh tính có điều gì đó, Hưng vào phòng khách, ý tứ?

- Ông bà và hai cháu về làng?

- Cách đây năm năm, mẹ cháu mất vì bạo bệnh. Cháu không hiểu vì sao bà chỉ ở một mình.

Hưng chăm chú nhìn khuôn mặt xinh đẹp:

- Cháu sinh ra sau trận lũ?

- Đúng rồi ạ. Mẹ cháu nói vậy, sao bác biết?

- Mẹ cháu tên gì?

- Tên Hiên ạ!

Như luồng điện chạy ngang người, mắt Hưng nảy hoa cà hoa cải. Anh nắm chặt tay ghế, cố kìm lòng để khỏi bật ra tiếng nấc nghẹn.

Mây phơn phớt hồng trên dãy Phiềng Na, núi rừng ngời ngợi sáng. Bình minh như chợt ngập tràn trăng…